Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu , trắc nghiệm ngữ văn lớp 12 2022 | Mytranshop.com

I. TÌM HIỂU CHUNG

1.Tác giả

– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), quê hương ở làng Thơi – Quỳnh Hải – Quỳnh Lưu- Nghệ An.

– Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong thời kì đổi mới của văn học Việt Nam.

– Tác phẩm chính:

+ Tiểu thuyết “Dấu chân người lính” (1972)

+ Truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” 

+ Văn học sau 1975: “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Bến quê”, “Cỏ lau”…

– Nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã chuyển thành phim kịch.

– Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu:

– Trước 1975: Nguyễn Minh Châu viết theo khuynh hướng sử thi lãng mạn.

–  Sau 1975 : ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh sâu sắc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

Tác phẩm này viết vào tháng 8/1983. Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, nước ta giành độc lập thống nhất hai miến Nam Bắc. Cả nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và hình thành lên một cuộc sống mới ấm no hạnh phúc hơn thế nhưng trong xã hội với hậu quả của cuộc chiến tranh để lại quá lớn khiến cho nhiều vấn đề cần đặt ra để được giải quyết

b. Tình huống truyện:

– Nhận diện: tình huống nhận thức.

– Mô tả: Phùng – một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài đang trong giây phút thăng hoa tuyệt đỉnh, khám phá ra vẻ đẹp “trời cho”của con thuyền biển buổi sớm mai thì chứng kiến đôi vợ chồng từ trên con thuyền bước xuống, lão đàn ông đánh vợ một cách hung bạo và vô lí. 

– Sự việc lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ thấy thái độ nhẫn nhịn, câm lặng chịu đựng của người đàn bà mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em Phác trước sự dã man của cha với mẹ.

– Anh nhận rõ những ngang trái, nghịch lí trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em Phác, người đàn ông, người đồng đội (Đẩu) và chính bản thân mình.

c. Bố cục: 2 phần lớn

– Phần 1 (từ đầu – “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai phát hiện của Phùng.

– Phần 2 (còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.

II. ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM

1. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng

* Phát hiện thứ nhất: “cảnh đắt trời cho”

– Vị thế của Phùng: nghệ sĩ nhiếp ảnh.

– Mục đích của chuyến đi: Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung ,nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương:

– Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.

– Sự hình thành tác phẩm:

+ Bắt đầu từ cảnh “trời cho”.  Với Phùng đây là khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Đó là cảnh một chiếc thuyền lưới vó ngoài khơi đang tiến vào bờ trong một buổi sáng mù sương có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.

“Vài bóng người lớn và trẻ em ngồi im phăng phắt như những pho tượng trên chiếc mui khum khum.”

“Tất cả những hình ảnh ấy được nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai gọng vó như một cánh dơi.”

-> Đó là một vẻ đẹp “trời cho”, một vẻ đẹp “thật đơn giản và toàn bích”

+ Tuy nhiên để có được tác phẩm, cần một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế nhanh nhạy nắm bắt khoảnh khắc xuất thần của nghệ thuật:

. Mô tả khung cảnh lãng mạn, thơ mộng:

. Trạng thái, hành động:

Đứng trước một bức tranh tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ nhiếp ảnh trở nên “bối rối”, “trong tim tưởng như có cái gì bóp thắt lại” → cơn “đau đẻ”, khoảnh khắc xung động cực điểm để tác phẩm hoài thai.

Không phải lựa chọn gì nữa, bấm một hồi “liên thanh” → dường như thiên nhiên đã bày sẵn tuyệt tác, người nghệ sĩ chỉ việc ghi lại một cách dễ dàng.

→ vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa đã tác động mãnh liệt đến tâm hồn của người nghệ sĩ khơi dậy những cảm xúc thăng hoa kì diệu.

– Cảm hứng triết lí về nghệ thuật:

+ Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ; một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.

→ nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.

+ Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa tác động mãnh liệt đến tâm hồn Phùng, điều này chứng tỏ tâm hồn của người nghệ sĩ rất dễ nhạy cảm, tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên con người → những tác phẩm nghệ thuật vô giá không phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của một hành trình đi tìm cái đẹp, quá trình lao động miệt mài của người nghệ sĩ chân chính.

+ “Cái đẹp là đạo đức” → khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự  “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 2022 | Mytranshop.com

→ cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh thiện. (Đốt-tôi-ép-xki:”cái đẹp cứu vớt con người”,Thạch Lam : “văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.)

→ Nhận xét: Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là kết hợp của rung động và duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.

* Phát hiện thứ hai: Phát hiện về hiện thực cuộc sống.

– Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng → gần, trực diện, rõ nét.

– Hình ảnh:

+ Người đàn bà: cao lớn, với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi (…) tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới → thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ.

+ Người đàn ông: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.

+ Hình ảnh xấu xí, sù sì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.

– Hành động:

+ Người chồng: hùng hổ, rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà → hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng, như một con thú dữ.

+ Người vợ: cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.

+ Đứa con: giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.

→ Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện thực trong Phùng muốn vỡ ra.

– Thái độ và hành động của Phùng:

+ Chưa hết ngạc nhiên vì sự xuất hiện của gia đình người đàn bà hàng chài,Phùng đã phải bàng hoàng khi chứng kiến cảnh người chồng đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và càng kinh ngạc hơn nữa khi người đàn bà bị đánh kia “không hề kêu một tiếng,không chống trả,cũng không tìm cách chạy trốn”

→ ”đứng há mồm ra nhìn”

+ Chuỗi nghịch lí ấy đã khơi dậy trong tâm hồn người nghệ sĩ nhiều cảm xúc trái ngược – từ niềm hạnh phúc ngỡ ngàng trước một vẻ đẹp hoàn hảo đến đến cảm giác kinh ngạc sững sờ vì sự thật trần trụi,tàn nhẫn và cả những xót xa,bất bình,phẫn nộ.

→ chúng đập mạnh vào trái tim người người nghệ sĩ.Anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”

+ Ba hôm sau, cảnh người đàn ông đánh vợ lại tái diễn.

. Không thể kìm nén được nữa, Phùng đã xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động ác độc.

. Người đàn ông đã đánh Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện để điều trị. 

→ Nhận xét:

Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh. Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nhà văn và cuộc đời)

* Mối quan hệ giữa 2 phát hiện:

– Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.

– Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, toàn màu hồn mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo – chiếc thuyền thấp thoáng biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư hơn nữa.

2. Tại tòa án huyện, câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đem đến những thay đổi trong nhận thức của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng 

– Theo quan điểm của Đẩu và Phùng, muốn giải quyết được những cảnh bạo hành trong gia đình của người đàn bà hàng chài chỉ có một cách tốt nhất là chị phải bỏ người chồng vũ phu tàn bạo ấy.

– Vì vậy, họ đã mời người đàn bà lên tòa án để giải quyết.

+ Nhưng chánh án Đẩu đã tỏ ra giận dữ khi nghe người đàn bà yêu cầu: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.

+ Còn nghệ sĩ Phùng, khi nghe câu nói của người đàn bà, anh cảm thấy “ngột ngạt”, khó thở vì quá bất ngờ trước quyết định của chị.

– Tuy nhiên, qua những lời giãi bày rất chân tình của người đàn bà hàng chài, Đẩu và Phùng đã “vỡ ra”nhiều điều mà trước đây họ chưa hề biết về chị.

* Người đàn bà hàng chài tại phiên tòa: Xuyênsuốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến têngọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyên Minh Châu  đã gọi một cách phiếm định: khithì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì Chịcũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ DANH. Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Bầu 4 tháng đi bộ nhiều có sao không? Có lợi ích gì? 2022 | Mytranshop.com

– Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:

+ Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi.

+ Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.

+ Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” → kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá. → hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng → một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận đánh thừa sống thiếu chết. (ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn) → Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo kia?

– Câu chuyện cuộc đời và những lí do khiến người đàn bà nhất định không bỏ chồng

+ Cách xưng hô: con, quý toà – chị, các chú → thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bề trên – chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng nghe.

+ Nội dung câu chuyện:

. Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ, buộc phải lấy anh hàng chài.

. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh.

. Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật → chồng hung hăng.

. Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngàymột trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, nhưlà để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc” Mày chết đicho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị khônghề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà  coi đólà một lẽ đương nhiên.

. Cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con, và “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo

– Những phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà hàng chài

+ Nhẫn nhục, chịu đựngchị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.

+ Yêu thương con tha thiết (“phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”)

Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, ko thể sống cho mình như trên đất được”.

Tình thương vô bờ đối với những đứa con Phân tích ty của chị với thằng Phác, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,….

→ Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.

+ Người đàn bà vị tha

Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnhphúc nhỏ nhoi (“…nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận”)

+ Người đàn bà thấu hiểu và thông cảm  sâu sắc với người chồng : Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.

+ Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời

Ý thức được thiên chức của người phụ nữ (“Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”)

Vì hoàn cảnh: trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Uống Nước Gì Để Giảm Cân Nhanh Chóng Trong Bốn Tuần? 2022 | Mytranshop.com

Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưngnhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đànbà là không thể khác được.

Đắng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời.

Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

→ Nhận xét: Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, thấy được:

+ Số phận người đàn bà: đau khổ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh đập.

+ Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài,biết chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi.

+ Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.

* Sau buổi nói chuyện với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, nhận thức của Đẩu và Phùng có nhiều thay đổi:

– Với Đẩu, anh đã vỡ ra nhiều nghịch lí của cuộc sống: lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ, luật pháp là cần thiết nhưng phải đi vào đời sống, muốn con người thoát khỏi cảnh đau khổ cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải li dị.

– Với Phùng, anh nhận ra một điều vô cùng thấm thía của một người nghệ sĩ làm nghệ thuật, đó là:

+ Đừng vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời, bởi “nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời”.Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Chính vì vậy mà Phùng đã xông ra buộc người đàn ông chấm dứt hành động độc ác với người vợ của hắn. Anh đã suy nghĩ rất nhiều về gia đình người đàn bà hàng chài, đã cùng với Đẩu tìm cách giải quyết những bất công ngang trái trong gia đình của chị.

+ Người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người trong mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều thì mới phản ánh đúng về con người và cuộc sống.

+ Chi tiết: hỏi người đàn bà một câu cắt ngang không ăn nhập: người chồng trước có đi lính nguỵ không

→ Định dùng cái nhìn trong chiến tranh để lí giải một hiện thực nghịch lí thời hậu chiến → Dụng ý: hiện thực cuộc sống mới hôm nay đã khác xa với hiện thực 30 năm chiến tranh, bề bộn, ngổn ngang, đa diện, bởi thế nó đòi hỏi một điểm nhìn khác, cách lí giải hiện thực khác. Không thể dùng cái nhìn địch – ta để phân tích mà cần nhìn nhận sâu sắc từ nhiều góc độ.

3. Các nhân vật khác

– Người đàn ông:

+ Xưa kia: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành”.

+ Nay: vì nghèo đã biến đổi thành gã đàn ông hung bạo, vũ phu.

+ Có sự gặp gỡ với các nhân vật của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao trước cách mạng.

→ hiện thực cuộc sống dữ dằn có sức tàn phá khủng khiếp đối với tâm hồn con người.

– Chị em Phác:

Nạn nhân bé bỏng, đau khổ → thêm vào tác phẩm một nét khắc dằn dữ của hiện thực.

– Chánh án Đẩu:  Là người lính vào sinh ra tử nơi chiến trường.

+ Là người tốt muốn giúp đỡ người đàn bà hàng chài nhưng chưa thật sự thấu hiểu cuộc đời của chị.

+ Có sự chuyển biến về mặt nhận thức: pháp luật phải gắn bó với hiện thực cuộc sống

III. TỔNG KẾT

1. Nội dung

Từ một câu chuyện về bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến bài học đúng đăn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vể đẹp bên ngoài của hiện tượng.

2 .Nghệ thuật

– Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa.

+ Con thuyền có thật.

+ Con thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người lênh đênh trên đại dương cuộc đời.

– Nghệ thuật tự sự độc đáo:

+ Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng – một người lính dày dặn kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự công bằng -> điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.

+ Ngôn ngữ: Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật). Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình, dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)

Leave a Comment