Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân, trắc nghiệm ngữ văn lớp 11 2022 | Mytranshop.com

aI. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả

– Nguyễn Tuân (1910 – 1987) quê ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình nho học khi Hán học đã tàn. Nguyễn Tuân nhiều lần theo gia đình chuyển nơi ở nhưng ông làm báo và viết văn chủ yếu ở Hà Nội. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, ông dùng ngòi bút của mình phục vụ hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc.

– Nguyễn Tuân là một nhà văn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông là người đã góp phần thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa độc đáo.

– Những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân có thể kể đến như Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972).

2. Tác phẩm

– Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù.

– Nhân vật chính trong Chữ người tử tù là Huấn Cao, một nhân vật điển hình trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Đó là những người tài hoa, bất đắc chí. Họ không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng, mặc dù chí không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.

II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1.Tình huống truyện

* Tình huống độc đáo của truyện ngắn Chữ người tử tù

– Đó là cuộc gặp gỡ kì lạ đầy éo le, trớ trêu giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Nói là cuộc gặp gỡ éo le và trớ trêu là bởi xét trên bình diện xã hội, Huấn Cao và quản ngục là những kẻ đối địch nhau, là kẻ thù của nhau. Một người đấu tranh để lật đổ cái trật tự xã hội hiện hành, một kẻ là đại diện cho cái trật tự mà người kia đang muốn đánh đổ. Nhưng trên phương diện tài hoa, nhân cách, họ lại là những người bạn tri âm, tri kỉ. Một người là nghệ sĩ, sáng tạo cái đẹp, một người biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Một người khí phách hiên ngang, cứng cỏi, một người ngưỡng mộ khí phách.

– Đó là một cuộc gặp gỡ kì lạ: không gian diễn ra cuộc gặp gỡ là nhà ngục, là phòng giam ẩm thấp bẩn thỉu nơi vốn chỉ gợi nhắc đến sự tăm tối, bạo hành và tội ác. Thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ cũng rất ấn tượng: đó là những ngày cuối cùng của người tử tù trước khi bị giải về kinh chịu án chém.

* Vai trò của tình huống truyện:

– Thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm: khẳng định sự bất tử của cái đẹp, sự tất thắng của cái chân, cái thiện, cái mĩ trong cuộc đối đầu với những gì xấu xa, tăm tối, độc ác. Thông điệp nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm qua tình huống truyện là thông điệp về sức mạnh cảm hóa kì diệu của nghệ thuật, của cái đẹp “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại”

– Bộc lộ tính cách nhân vật:Thông qua tình huống truyện, nhân vật Huấn Cao có cơ hội bộc lộ rõ những phẩm chất cao đẹp: vừa hiên ngang, dũng liệt vừa tài hoa nghệ sĩ lại giữ được cái tâm trong sáng. Còn quản ngục, qua tình huống éo le ấy, cũng thể hiện mình là một người có khí phách, biết “biệt nhỡn liên tài”, trân trọng tài năng và khí phách của người anh hùng đồng thời là người vẫn giữ được thiên lương trong sáng.

– Thúc đẩy cốt truyện phát triển (tạo không khí căng thẳng, lôi cuốn): Từ tình huống truyện, cốt truyện được triển khai, phát triển và lên đến cao trào trong cảnh cho chữ cuối tác phẩm. Chính tình huống độc đáo đã tạo cho câu chuyện sự lôi cuốn, hấp dẫn người đọc ngay từ đầu tác phẩm.

– Thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: một người nghệ sĩ tài hoa, đầy cá tính, luôn tìm tòi, khám phá cái đẹp, cái đẹp độc đáo, phi thường nhưng vẫn mang giá trị nhân văn sâu sắc.

* Đánh giá chung: Tình huống truyện là một thành công nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm, góp phần tạo nên giá trị, sức hấp dẫn của tác phẩm đồng thời thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của tác giả Nguyễn

2. Huấn Cao

a. Một người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp:

– Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”.

→ Tài viết chữ – nghệ thuật thư pháp

– “ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm … có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật ở trên đời

– Ca ngợi tài của Huấn Cao, nhà văn thể hiện quan niệm và tư tưởng nghệ thuật của mình:

+ Kính trọng, ngưỡng người tài,

+ Trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân tộc.

 b. Một con người có khí phách hiên ngang bất khuất

– Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.

– Ngay khi đặt chân vào nhà ngục:

+ Trước câu nói của tên lính áp giải: không thèm để ý, không thèm chấp.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Review máy triệt lông IPL cầm tay? Top 5 dòng máy IPL an toàn 2022 | Mytranshop.com

+ Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:

“Huấn Cao lạnh lùng … nâu đen”

→ Đó là khí phách, tiết tháo của nhà Nho uy vũ bất nắng khuất.

– Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”

→ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.

– Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt đến điều “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.

→ Không quy luỵ trước cường quyền.

→ Đó là khí phách của một người anh hùng.

c. Một nhân cách, một thiên lương cao cả

– Tâm hồn trong sáng, cao đẹp:

“Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ”, và chỉ mới cho chữ “ba người bạn thân”

→ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỉ.

– Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân.

→ đối xử coi thường, cao ngạo.

– Khi biết tấm lòng của quản ngục:   

+ Cảm nhận được “Tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và hiểu ra “Sở thích cao quý” của quản ngục

+ Huấn Cao nhận lời cho chữ

→ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.   

– Câu nói của Huấn Cao:

 “ Thiếu chút nữa  …  trong thiên hạ”

→ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.

→ Huấn Cao là một anh hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.

– Quan điểm của Nguyễn Tuân: Cái tài phải đi đôi với cái tâm, cái đẹp và cáci thiện không thể tác rời nhau.

→ Quan niệm thẩm mỹ tiến bộ.

3. Viên quản ngục

a. Lai lịch và ngoại hình viên quản ngục:

– Nếu nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân xây dựng có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ, thì trái lại, nhân vật quản ngục có sự vận động rất thú vị. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.

 – Quản ngục lại có một ngoại hình ưa nhìn khác hẳn với hình dung của ta khi nghĩ về một viên quan cai quản trại giam. Đầu ông đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu; bộ mặt tư lự, có nhiều nếp nhăn, chứng tỏ đây là người có đời sống nội tâm sâu sắc. Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya “băn khoăn ngồi bóp thái dương” suy nghĩ về người tù nổi tiếng sắp được chuyển đến càng chứng tỏ tính cách khác thường của ông ta.  

b. Hoàn cảnh sống của viên quản ngục:

– Quản ngục sống ở chỗ tối tăm, toàn những kẻ “tiểu nhân thị oai”phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ: cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông Huấn Cao, gặp thần tượng của mình trong một hoàn cảnh cực kì éo le: ở chính trại giam mà ông ta quản lí; thần tượng của ông giờ đây  là một tử tù, còn ông lại là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra: ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau.

c. Tính cách:

– Hình tượng nhân vật quản ngục là một sáng tạo rất sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dẫn dắt bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam với cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách. Viên quản ngục được nhà văn xây dựng như một nhân vật phản diện nhưng cũng là một điểm nhấn độc đáo bởi tính cách đa dạng của ông ta.

– Trước hết, viên quản ngục là người biết quý trọng người tài. Ông sẵn sàng biệt đãi Huấn Cao bất chấp “phép nước”. Điều này có thể thấy rõ qua thái độ của ông ta khi nhận tù: ông đã lệnh cho thơ lại “bảo ngục tốt quét dọn lại cái buồng trong cùng”, ông nhìn sáu tên tù mới vào“với cặp mắt hiền lành” và lòng kiêng nể tuy cố giữ kín đáo nhưng vẫn bộc lộ rõ ràng.

– Ông lại còn có “biệt nhỡn” đối với riêng Huấn Cao khi trả lời câu nhắc nhở của bọn lính: “Việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”. Suốt nửa tháng Huấn Cao ở trại giam tỉnh Sơn, ngục quan đã “biệt đãi” người tù đặc biệt này như một khách quý. Trước mỗi bữa ăn, Huấn Cao đều được thầy thơ lại “dâng rượu với đồ nhắm”, thái độ thì hết sức lễ phép: “thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng”.

– Quản ngục còn đích thân đến tận buồng giam tử tù để hỏi ông Huấn:“Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Đáp lại lòng chân thành của ngục quan, Huấn Cao lạnh lùng xua đuổi: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Trả lời như thế, ông Huấn đã sằn sàng chờ đợi những trận đòn thù của ngục quan, nhưng kì lạ thay, viên quản ngục ấy lại làm cho ông Huấn bực mình thêm khi ông ta chỉ lễ phép lui ra với câu nói:“Xin lĩnh ý”. Kì lạ hơn nữa là những ngày tiếp theo cơm rượu vẫn được đưa đến đều đều và có phần “hậu hơn trước nữa”. Những trăn trở, băn khoăn và thái độ “biệt đãi” nói trên  cho thấy quản ngục có một tấm lòng“biệt nhỡn liên tài” rất đáng trân trọng. Vì thế, hình tượng viên quản ngục trên trang viết Nguyễn Tuân hấp dẫn không kém hình tượng người tử tù độc đáo.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Học PT Gym Ở Đâu Uy Tín Và Chất Lượng? 2022 | Mytranshop.com

– Không chỉ biết quý trọng người tài, quản ngục còn có một tâm hồn nghệ sĩ. Mặc dù chọn nhầm nghề nhưng ông lại say mê cái đẹp và có sở thích cao quí là chơi chữ. Đó là một sở thích thanh cao, sang trọng. Biết Huấn Cao là người có tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, ngục quan ấp ủ trong lòng mơ ước có một ngày xin được chữ ông Huấn, “được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Có được chữ của ông Huấn, đối với quản ngục chẳng khác nào “có một báu vật trên đời”.

+ Cuối cùng, ông Huấn cũng hiểu sở nguyện của ngục quan khi được thầy thơ lại kể cho nghe tâm sự canh cánh của ông ta trong suốt bao ngày. Ông Huấn đã chấp nhận cho chữ mặc dù tính ông vốn khoảnh, chỉ viết chữ cho tri âm tri kỉ. Ông đã nói với thầy thơ lại: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

+ Cuộc kì ngộ này còn kết thúc bằng thái độ thành kính của ngục quan khi nhận lời khuyên chân thành của tử tù. Ông Huấn đã khuyên ngục quan rời bỏ nghề này, “lui về nhà quê” để giữ lấy thiên lương rồi hãy nghĩ dến chuyện chơi chữ. Ngục quan đã “vái tử tù một vái” và nói qua dòng nước mắt: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Tất cả những việc làm, lời nói, thái độ khác thường của ngục quan từ khi tiếp nhận người tử tù Huấn Cao đã cho ta thấy ông ta có một tâm hồn nghệ sĩ, thật sự say mê, tôn thờ cái đẹp.

+ Bằng ngòi bút lí tưởng hóa, Nguyễn Tuân còn xây dựng hình tượng viên quản ngục thành người tri âm tri kỉ với Huấn Cao. Ông ta đối lập với những tàn nhẫn, lọc lừa trong đề lao. Ông chính là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Điểm đặc biệt nhất là ông ta ý thức được “mình đã chọn nhầm nghề mất rồi”, vì vậy đối diện với Huấn Cao, ông ta khép nép, nhún nhường, trở nên nhỏ bé. Ông cúi đầu trước Huấn Cao bởi ông Huấn là hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương cao cả. Dòng nước mắt của ông khi nhận lời khuyên của Huấn Cao chứng tỏ ông đã nhận thức được ý nghĩa sâu xa trong lời khuyên đó. Cái vái lạy của ông không phải là hành động của kẻ bề dưới sợ hãi trước uy quyền của kẻ bề trên mà là biểu hiện của một người bị khuất phục, cảm hóa trước “thiên lương”. Quản ngục đúng là “một tấm lòng trong thiên hạ” mà Huấn Cao được gặp và họ đã trở thành tri âm, tri kỉ của nhau.

+ Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Có thể nói rằng viên quản ngục là một vị minh quân biết sử dụng Huấn Cao là một tướng tài.

+ Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.

+ Ta có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững. Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người được cái thiện dẫn đường, mong muốn một hi vọng không lầm đường lạc lối.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Phòng tập gym Hatha Fitness & Yoga, Bến Vân Đồn, Quận 4 2022 | Mytranshop.com

4. Cảnh cho chữ: Cảnh tượng xưa nay chưa từng có bởi:

– Xưa nay, việc cho chữ vốn chỉ diễn ra ở những nơi tao nhã như thư phòng, thư sảnh, viện sách. Còn ở đây lại diễn ra giữa nhà tù tăm tối, hôi hám, chật hẹp.

– Người cho chữ là những bậc tao nhân mặc khách ung dung nhấp rượu, thưởng trà, khoan thai cầm ngọn bút lông thảo từng nét. Ở đây người cho chữ lại là tên tù ” cổ đeo gông, chân vướng xiềng”.

a. Sự chiến thắng của ảnh sảng đối với bóng tối 

– “Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm, lại vào đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đqng chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ” và “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái “ánh sáng đỏ rực”, cái “lửa đóm cháy rừng rực” đã xua tan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu ấy, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

– Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lí, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người: ánh sáng của lương trí, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tốì của tàn bạo chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện.

b. Sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn

– Sự phàm tục, sự nhơ bẩn ở đây được biểu thị rất rõ trong cảnh “một buồng chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”; còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng: màu trắng tinh của phiến lụa óng và mùi thơm từ châu mực bốc lên – điều dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết còn mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời.

* Sự đốì lập nói trên đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Tâm hồn Huấn Cao bát ngát đến chừrig nào khi ông nói về mùi thơm của mực: “Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…”. Thế là, không có nhà ngục nào tồn tại nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn mạng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự tinh khiết của lụa – nó là sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người.

c. Sự chiến thắng của tỉnh thần bất khuất trước thải độ cam chịu nô lệ

– Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ, và ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi: người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản); còn bọn quản lí nhà ngục lại khúm núm, sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”).

– Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những con người trong cảnh ấy. Không còn là cảnh cho chữ bình thường mà là một cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa ngựời cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi bất tử. Và lời khuyên đầy tình người ấy đã có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”

III. TỔNG KẾT

1. Nội dung

– Truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang,bất khuất. Qua đó nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín lòng yêu nước.

2. Nghệ thuật

– Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo;trong nghệ thuật dựng cảnh; khắc họa tính cách nhân vật; tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc tạo dựng phép đối và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.

Leave a Comment