I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
– Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939).
– Là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng tháng Tám.
– Ông nổi tiếng về tiểu thuyết, truyện ngắn và đặc biệt thành công ở thể phóng sự.
– Để lại nhiều kiệt tác như: Số đỏ; Giông tố; Vỡ đê; Cơm thầy cơm cô,…
2. Giới thiệu tiểu thuyết Số đỏ
– Được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam, có thể “làm vinh dự cho mọi nền văn học” (Nguyễn Khải)
– Đăng báo Hà Nội từ số 40 ngày 7/10/1936, in thành sách năm 1938
– Tóm tắt nội dung.
3. Đoạn trích
– Thuộc chương 15 của tiểu thuyết Số đỏ.
– Nhan đề: Do nhà biên soạn sách đặt.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Nội dung
a. Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc:
– Nhà có tang mà lại vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc
→ Hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui của lũ con cháu đại bất hiếu.
– Phản ánh một sự thật mỉa mai, hài hước và tàn nhẫn: Con cháu của đại gia đình này thật sung sướng khi cụ cố tổ chết
→ Tình huống trào phúng chủ yếu của toàn bộ chương truyện.
b. Những niềm vui khác nhau của các thành viên trong gia đình và ngoài gia đình khi cụ cố Tổ mất
* Niềm vui chung cho cả gia đình: “cụ cố tổ chết cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn lí thuyết viễn vông nữa
→ Một gia đình đại bất hiếu.
* Niềm vui của những thành viên trong gia đình:
– Cố Hồng (con trai cả): sướng điên lên vì lần đầu tiên được diễn trò già yếu trước mọi người cụ mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo “úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”
→ điển hình cho loại người háo danh.
– Ông Văn Minh (cháu nội ): thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa
→ Bất hiếu, đầy dã tâm.
– Bà Văn Minh (cháu dâu): mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.
→ Thực dụng, thiếu tình người.
– Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục ngây thơ để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết nhưng đau khổ như kim châm vào lòng “ không thấy bạn giai đâu cả”
→ Hư hỏng, lẳng lơ.
– Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến
→ Niềm vui của con trẻ kém hiểu biết.
– Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.
→ Là người không có nhân cách, vô liêm sĩ.
* Niềm vui của những người ngoài gia đình:
– Hai vị cảnh sát Min Đơ và Min Toa “sung sướng cực điểm” vì đang thất nghiệp được thuê dẹp trật tự cho đám đông.
– Xuân tóc đỏ: danh giá và uy tín càng cao thêm → láu cá, vô giáo dục.
– Bạn bè cụ cố Hồng: Có dịp phô trương đủ thứ huân, huy chương, các kiểu quần áo, đầu tóc, râu ria…
– Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch: Có dịp tụ tập để khoe khoang, hẹ hò nhau, chim chuột nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau…
→ Mọi người dù chủ hay khách đều vui vẻ, hạnh phúc trước cái chết của cụ cố Tổ. Đó chính là sự suy đồi về đạo lý, sự tha hoá về nhân cách con người.
→ Tác giả khai thác những yếu tố mâu thuẫn để gây cười, cái cười phê phán đây mỉa mai châm biếm về một xã hội thực dân thu nhỏ với tất cả sự đồi bại, xuống dốc của đạo lý và nhân cách con người, đó là lời tố cáo của tác giả đối với xã hội âu hoá rởm.
c. Cảnh đám ma gương mẫu
– Bề ngoài thật long trọng, “gương mẫu” nhưng thực chất chẳng khác gi đám rước nhố nhăng: đám ma to tát, đi đến đâu làm huyên náo đến đấy. Có sự phối hợp cả Ta -Tàu -Tây, mọi người thi nhau chụp ảnh như hội chợ, tràn ngập vòng hoa, câu đối, đầy đủ các loại mốt quần áo, râu ria…
– Mọi người không ai đi đưa tang mà đang mải trò chuyện về nhà cửa, vợ chồng, con cái, tất cả đang mải bình phẩm, chê bai lẫn nhau, tình tự, chim chuột, hẹn hò nhau bằng cái vẻ mặt buồn buồn lãng mạn rất đúng mốt.
→ Sự giả tạo, đóng kịch của giới tri thức rởm, đạo đức suy đồi của nền văn minh Âu hóa rởm
* Cảnh hạ huyệt
Cậu Tú Tân yêu cầu mọi người tạo dáng để chụp ảnh, con cháu tự nguyện trở thành những diễn viên đại tài: Cụ Cố Hồng ho khạc, mếu máo và ngất đi.
Đặc biệt là “màn kịch siêu hạng” của ông Phán mọc sừng cứ oặt người đi khóc to bằng những âm thanh lạ: Hứt!…Hứt!…Hứt!…
→ Đám tang diễn ra như một tấn đại hài kịch. Nó nói lên tất cả sự lố lăng vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu ngày trước. Cái xã hội mà tác giả gọi là Chó đểu, khốn nạn.
III. Tổng kết
1. Đặc sắc nghệ thuật
– Nghệ thuật tạo tình huống cơ bản rồi mở ra những tình huống khác.
– Phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt cùng tồn tại trong một con người, sự vật, sự việc.
– Thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa,… được sử dụng một cách linh hoạt.
– Miêu tả biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết, nói trúng nét riêng của từng nhân vật.
2. Ý nghĩa văn bản
– Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là một bi hài kịch, phơi bày bản chất nhố nhăng, đồi bại của một gia đình đồng thời phản ánh bộ mặt thật của xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng Tám.