I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả: Nguyễn Trung Thành
– Tiểu sử:
+ Tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932 ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
+ Có mặt và hoạt động cách mạng ở Tây Nguyên trong 2 cuộc kháng chiến.
– Con người:
+ Vốn sống phong phú, giàu có trong những năm tháng chiến tranh.
+ Gắn bó sâu sắc với thiên nhiên và con người Tây Nguyên.
+ Tận mắt chứng kiến, thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên, những trang sử hào hùng mang màu sắc huyền thoại của Tây Nguyên về những thế hệ người Tây Nguyên đứng lên chống kẻ thù: Kơpachơlơng, Tnú… → niềm tự hào, ngưỡng mộ với đât nước, con người Tây Nguyên.
– Sáng tác: Tác phẩm tiêu biểu: “Đất nước đứng lên”, “Rẻo cao”, “Rừng xà nu”,” Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”, “Đất Quảng”…
– Đặc sắc:
+ Tác phẩm dù ra đời ở thời điểm nào cũng đậm chất sử thi
+ Nét riêng của chất sử thi trong sáng tác Nguyễn Trung Thành: dấu ấn Tây Nguyên, không khí Tây Nguyên, gợi liên tưởng về những pho sử thi đồ sộ xa xưa của người miền núi.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời
– Mùa hè năm 1965, Mĩ ào ạt đổ quân vào miền Nam Việt Nam để đánh nhanh, diệt gọn → khơi dậy chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã được hun đúc từ kháng chiến chống Pháp ở miền Nam nói chung, Tây Nguyên nói riêng.
– Nguyễn Trung Thành tận mắt chứng kiến quá trình thức tỉnh và đứng lên của người dân Tây Nguyên yêu nước.
b. Nhan đề
– Cây xà nu là loại cây có thật trên mảnh đất Tây Nguyên nó đã khởi nguồn cảm hứng cho tác giả viết nên thiên truyện: “ Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó, đó là những cây hùng với tán lá thanh nhã, rắn rỏi tưởng chừng như đã sống ngàn đời và sẽ sống đến ngàn đời sau, từng cây hàng vạn cây, hàng triệu cây vô tận.”
– Viết về cây xà nu như thế ta hiểu vì sao tác giả đặt tên cho tác phẩm là “Rừng xà nu” vì nó biểu trưng cho phẩm chất, cho sức sống vươn lên mạnh mẽ, mãnh liệt cho tinh thần đoàn kết của những người dân Xô man.
– Nhan đề của truyện mang đâm khuynh hướng sử thi, chất thơ và vẻ đẹp lãng mạn.
→ Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả ý nghĩa tả thực lẫn ý nghĩa tượng trưng. Tên cho tác phẩm như đã chứa đựng được cảm xúc của nhà văn và linh hồn tư tưởng chủ đề tác phẩm
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện: nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện.
+ Mở ra: đồi xà nu
+ Khép lại: những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
→ Tác dụng:
+ Không gian mở rộng → Sức sinh sôi, sự sống mạnh hơn cái chết và sự huỷ diệt.
+ Tạo cấu trúc điệp vòng tròn → hình tượng xuyên suốt, mang tầm vóc sử thi.
* Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng :
– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên: khói xà nu xông bảng nứa để Tnú và Mai học,…
– Gắn với các sự kiện quan trọng của dân làng Xô man: sự vùng dậy, cả làng bí mật mài vũ khí, Tnú bị tra tấn…
– Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.
→ Hình tượng xuyên suốt, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt và cuộc kháng chiến chống Mĩ của người Tây Nguyên.
– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng.
+ Biểu tượng của đau thương:
. Mở đầu tác phẩm: đồi xà nu, ở trong tầm đại bác → ngay từ những dòng đầu tiên, xà nu đã được đặt trong cảnh liên quan đến sự huỷ diệt dữ dội, tàn bạo → thử thách lớn, nghiệt ngã với rừng xà nu.
. Hàng vạn cây, không cây nào không bị thương:
• Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.
• Ở chỗ vết thương: dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn → thương tích bầm tụ → vết thương lớn.
• Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt làm đôi → vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết → tả hình ảnh những cây non bị huỷ diệt tạo cảm giác xa xót.
→ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Biểu tượng của vẻ đẹp nên thơ và sức sống bất diệt:
. Ở chỗ vết thương: nhựa ứa ra, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt → huy động ấn tượng khứu giác (thơm ngào ngạt) và ấn tượng thị giác (long lanh) để miêu tả chất nhựa xà nu → đẹp thi vị.
. Trong rừng ít loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy → so sánh làm nổi bật sức sống hiếm có của xà nu. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời → nguồn sống bền bỉ, ngạo nghễ, ngang tàng, như cỏ dại, như suối nguồn ào ạt.
. Ham ánh sáng măt trời, phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, long lanh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng → câu văn có sự thăng hoa của hai vẻ đẹp: vẻ nên thơ và sức mạnh cường tráng, bất khuất.
• Ham ánh sáng mặt trời → bản năng tồn sinh dẻo dai, luôn hướng về phía ánh sáng, hướng về sự sống.
• Động từ mạnh: ham, phóng, đón → tư thế chủ động chiếm lĩnh → khao khát sống, khả năng sống tiềm tàng mãnh liệt.
→ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
• Hương thơm của nhựa cây tiếp tục được đan chiếu ánh xạ trong hai chiều cảm nhận: thị giác, khứu giác.
“hạt bụi vàng”: những hạt bụi dưới ánh sáng mặt trời từ trên cao rọi xuống giống như những hạt bụi long lanh → thơ hoá một hình ảnh bình thường.
“thơm mỡ màng”: không phải “thơm ngào ngạt” (cùng sắc độ đậm đặc, mạnh), không phải “thơm dìu dịu” (sắc độ nhẹ) mà là thơm mỡ màng → mùi hương ngậm một nguồn sống dồi dào.
• Có những cây: vượt lên được, cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ.
→ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
• Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng.
• Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…
• Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu đã ưỡn tấm ngực lớn ra, che chở cho làng → rào chắn, điểm tựa, áo giáp che chở cho cuộc sống dân làng Tây Nguyên -> thái độ trân trọng, hàm ơn.
→ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.
→ Nhận xét:
– Nhà văn xoay ống kính từ ngoài vào trong, từ nhìn ngắm tổng quát đồi xà nu hàng vạn cây đến, phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực ngời xanh giữa ánh nắng đồng thời thâm nhập vào từng tế bào xà nu, khám phá chất nhựa thơm ngào ngạt – cái mùi thơm của sự sống bất tử.
– Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người . Các biện pháp nhân hoá,ẩn dụ,tượng trưng khiến xà nu không chỉ hiện lên ở phương diện sinh vật học với đặc tính dẻo dai, sức chịu đựng tốt mà còn trở thành sinh thể sống, đang chịu những đau đớn về thể xác nhưng bất khuất, kiên cường, gan dạ, bản lĩnh, ẩn tàng một sức sống bất diệt, một tâm hồn giàu chất thơ đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
– Hai cảm hứng: đau thương và bất tử đan xen nhưng âm hưởng chủ đạo là bài ca bất tận về sự sống.
– Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Cách xuất hiện như vậy gợi cho chúng ta suy nghĩ: cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
2. Hình tượng nhân vật Tnú
– Tình huống nhân vật xuất hiện:
+ Sau 3 năm đi lực lượng, nghỉ phép về thăm làng một ngày.
+ Cụ Mết kể chuyện cuộc đời Tnú trước đông đủ dân làng và có mặt cả Tnú.
+ Không – thời gian:
. Nhà ưng
. Đêm rừng, bên ngoài lấm tấm một trận mưa đêm.
+ Giọng kể: trầm và nặng.
+ Cách kể: trang trọng, tôn nghiêm, kể “khan”.
+ Dặn dò: Sau này tau chết, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe → câu chuyện về Tnú trở thành truyện thiêng của cộng đồng Strá, thành di huấn, báu vật tinh thần truyền từ đời này sang đời khác.
→ Nhận xét:
+ Màu sắc sử thi huyền thoại, giữa người nghe và người kể có khoảng cách không – thời gian vời vợi, xa xăm, với thái độ chiêm ngưỡng thiêng liêng, thành kính.
+ Chất hiện đại: nhân vật được kể hiện hữu, chứng kiến, tham gia → chân thực
+ Kể một câu chuyện mang màu sắc huyền thoại về một nhân vật đang sống → biến câu chuyện của cá nhân anh hùng thành câu chuyện của dân tộc anh hùng Tnú là sự tiếp nối các của Đăm Săn, Xinh Nhã… thưở trước trong thời đại kháng chiến chống Mĩ → bao bọc nhân vật trong không khí sử thi, huyền thoại.
+ Tính chất “truyện kể một đêm, một đêm dài bằng cả đời người”.
– Cuộc đời Tnú qua dòng hồi ức của cụ Mết:
+ Nhỏ:
. Mồ côi, sống nhờ sự chở che, đùm bọc của dân làng.
. Thay cho thanh niên, người già, tiếp tế cho cán bộ → gan góc, dũng cảm.
. Ý thức sâu sắc: Cụ Mết nói: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn” → ý thức cách mạng mạnh mẽ, sáng tỏ.
. Học chữ không được, lấy đá đập đầu, nhờ Mai dạy → nóng nảy, kiên gan, thẳng thắn, trung thực, cầu thị.
. Đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng, xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cới lên thác băng băng như một con cá kình không phải vì Tnú ngạo ngược, ngông nghênh, nông nổi mà vì ý thức “Qua chỗ nước êm thằng Mĩ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”→ thông minh, cá tính mạnh mẽ, dũng cảm.
. Giặc bắt: dao chém ngang lưng hỏi cách mạng đâu → Tnú chỉ vào bụng, không khai một lời dù bị tra tấn dã man -> kiên cường, gan góc, tuyệt đối trung thành với cách mạng.
→ Tnú nổi bật với các phẩm chất: thông minh, thẳng thắn, trung thực, gan góc, táo bạo, dũng cảm, kiên cường.
+ Khi trưởng thành:
. Ba năm sau, vượt ngục về làng, cùng thanh niên lên núi Ngọc Linh mài vũ khí → người nuôi giữ để ngọn lửa yêu nước luôn đượm cháy, thắp sáng qua các thế hệ con người Tây Nguyên → chủ động cho cuộc chiến đấu mới với kẻ thù.
. Thằng Dục xuất hiện để bắt và giết Tnú:
Giặc bắt và hành hạ vợ con Tnú dã man → Tnú “chồm dậy”, “hai con mắt là hai cục lửa lớn” → căm hờn đã uất đọng không thể tan, chỉ trực bùng lên thành hành động trả thù.
Hét dữ dội, nhảy xổ vào giữa bọn lính.
Bị bắt: giẻ tầm dầu xà nu, quấn quanh mười đầu ngón tay, đốt → không kêu một tiếng nào.
Mười ngón tay thành mười ngọn đuốc → Tnú nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra, trừng trừng.
Không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay, nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng, cháy cả ruột → chuyển hoá kì lạ: từ ngọn lửa vật lí bình thường thành ngọn lửa tinh thần căm hờn → con người đang tự đốt mình lên, đốt đau đớn, căm thù thành hành động quật khởi.
Hét lên một tiếng, không phải là tiếng hét đau đớn mà là tiếng hét căm hờn “Giết”→ giống như một lời hiệu triệu, một lời sấm truyền thiêng liêng.
→ Nhận xét:
+ Nhịp văn ngắn, dồn dập, nhanh, gấp, giàu kịch tính (kẻ thù trắng trợn, thách thức, bạo tàn, uy hiếp; dân làng tận mắt chứng kiến người anh hùng của mình bị tra tấn dã man → kết thúc xung đột là hành động vùng lên giết kẻ thù.
+ Khái quát chân lí cách mạng đồng thời là tư tưởng của tác phẩm (qua lời cụ Mết) làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
. Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.
. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
. Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
→ Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng..
+ Luân phiên lượt kể: Tnú kể lại: giết Dục (có súng, có dao) bằng chính đôi tay mỗi ngón cụt một đốt.
+ Ý nghĩa biểu tượng của chi tiết bàn tay:
. Mười ngón đuốc rực cháy → biểu trưng cho sức mạnh, sự kiên cường bất khuất của con người.
. Mỗi ngón cụt một đốt → chứng nhận tội ác dã man của kẻ thù, chứng tích đau thương để nhắc nhớ người dân Xô man về chân lí cách mạng.
. Bóp cổ thằng Dục → sức mạnh tiêu diệt kẻ thù, sự trả giá tất yếu cho tội ác của bọn xâm lược → sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên.
→ Tiểu kết về nhân vật Tnú:
– Qua nhân vật Tnú, nhà văn khái quát cuộc đời đau thương mà anh dũng, khám phá vẻ đẹp quả cảm, lòng yêu nước, phẩm chất gan dạ, anh hùng và sức sống mãnh liệt của người dân Tây Nguyên.
– Xây dựng nhân vật bằng bút pháp sử thi → nhân vật hiện lên như người anh hùng trong những trang của huyền thoại của người miền núi.
– Tiếp nối truyền thống có từ Đam Săn, Xinh Nhã, Đinh Núp…, kéo dài và làm mới những trang sử thi thủa trước bằng tinh thần hiện đại.
3.Cụ Mết, Dít, bé Heng
– Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.
→ Nếu ví làng Xôman như một khu rừng xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
– Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.
– Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.
→ Nhận xét:
– Bổ sung, hoàn chỉnh cho hình tượng Tnú.
– Tạo nên bức tranh toàn cảnh rộng lớn, có tính chất sử thi về các thế hệ người Tây Nguyên nổi dậy chống Mĩ.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung
Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên cạnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa lớn lao của của dân tộc và thời đại; Để cho sức sống của dân tộc và nhân dân mãi trưởng tồn, không còn cách nào cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ tù tàn ác.
2. Nghệ thuật
– Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật).
– Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…).
+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.
+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.