TÂY TIẾN
– Quang Dũng –
*Kiến thức trọng tâm:
– Nghệ thuật: Cảm nhận được nét đặc sắc trong cảm hứng sáng tác và bút pháp lãng mạn trong tác phẩm.
– Phân tích và cảm nhận được vẻ đẹp khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội nhưng lại trữ tình, thơ mộng, con người Tây Bắc thơm thảo tấm lòng. Quan trọng nhất là cảm nhận được vẻ đẹp người lính Tây Tiến: sống và chiến đấu gian khổ, khắc nghiệt nhưng vẫn lạc quan, yêu đời và lãng mạn, hào hoa.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả:
– Quang Dũng (1921-1988), tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Quê ở Đan Phượng- Hà Tây (nay thuộc Hà Nội)
– Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc
– Về đặc điểm thơ: hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
– Với tài năng và đóng góp của mình, Quang Dũng đã được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
2. Sự nghiệp văn học
– Ông có những tác phẩm chính như tập Mây đầu ô ( 1986), Thơ văn Quang Dũng ( 1988). Các sáng tác của ông luôn toát lên một hồn thơ phóng khoáng, hào hoa và lãng mạn. Nó được thể hiện thông qua hình tượng nhân vật và cấu tứ thơ toàn bài.
3. Bài thơ Tây Tiến
a. Hoàn cảnh sáng tác:
– Bài thơ Tây Tiến được sáng tác trong một hoàn cảnh khá đặc biệt.
– Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ơ Thượng Lào + Tây Bắc Bộ Việt Nam.
– Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Sơn La, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào)
– Các chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều giới trí thức là học sinh, sinh viên như Quang Dũng . Họ phải chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy nhiên họ vẫn sống rất lạc quan, yêu đời, chiến đấu dũng cảm.
– Quang Dũng làm đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển công tác ở đơn vị mới. Rời xa đơn vị chưa được bao lâu, tại Phù Lưu Chanh- một làng thuộc thỉnh Hà Đông cũ, Quang Dũng đã viết bài Tây Tiến.
b. Xuất xứ:
– Bài thơ Tây Tiến được in trong tập Mây đầu ô (1986)
4. Nhan đề : Tây Tiến
– Chỉ tên một đơn vị bộ đội
– Ban đầu có tên là nhớ Tây Tiến, sau in trong tập Mây đầu ô, Quang Dũng bỏ chữ nhớ đi, còn lại nhan đề Tây Tiến. Việc thay đổi này có 2 ý nghĩa.
+ Ý nghĩa thứ nhất, nó không làm lộ ý nỗi nhớ của Quang Dũng về Tây Tiến, giúp cho nhan đề cô đọng, đúc ý hơn, hợp với tiêu chí thơ “ ý tại ngôn ngoại”, “lời ít ý nhiều”.
+ Ý nghĩa thứ hai là nó làm tăng khả năng bao trùm của nỗi nhớ. Vì nếu đặt là nhớ Tây Tiến tức là chỉ nói đến nỗi nhớ về binh đoàn Tây Tiến trong khi ở đây, thông qua nỗi nhớ Tấy Tiến, nhà thơ còn gửi gắm về nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Như vậy là chưa bao quát được hết ý nghĩa nội dung nỗi nhớ, quá hẹp so với ý nghĩa mà Quang Dũng muốn chuyển tải.
5. Chia bố cục:
– Đoạn 1: 14 câu thơ đầu: Qua nỗi nhớ Tây Tiến, Quang Dũng khắc họa chặng đường hành quân gian khổ của những chiến binh Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội
– Đoạn 2: 8 câu tiếp theo: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước Tây Bắc thơ mộng, trữ tình.
– Đoạn 3: 8 câu ở khổ tiếp theo : Khắc họa chân dung người lính Tây Tiến
– Đoạn 4: 4 câu còn lại : Tình cảm sâu đậm của nhà thơ dành cho mảnh đất Tây Bắc.
II. Đọc- hiểu văn bản:
1. Đoạn 1 :
– Ý nghĩa khái quát của 3 khổ đầu: Thông qua nỗi nhớ để nhà thơ Quang Dũng khắc họa nên hình ảnh của những chiến binh Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ, dữ dội mà cũng rất trữ tình, thơ mộng.
a. Bốn câu đầu: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
– Mở đầu là câu thơ bắt đầu bằng một lời gọi dưới hình thức câu cảm thán : “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”. Chỉ ở một câu thơ thôi mà hiện ra những 2 danh từ: sông Mã và Tây Tiến. Sông Mã là tên địa danh, một con sông ằm ở địa phận tỉnh Thanh Hóa, một trong những địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến. Nói đến sông Mã để gợi đến đơn vị Tây Tiến- nơi gắn bó biết bao kỉ niệm.
– Nhà thơ nhớ đến khung cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hoang vu với nỗi nhớ chơi vơi. Xưa, trong ca dao ta có bắt gặp nỗi nhớ này trong ca dao:
“ Ra về nhớ bạn chơi vơi”. Chơi vơi là một nỗi nhớ về những thứ đã ở quá khứ, nay chỉ còn trong hoài niệm. Nó chờn vờn, hiện rồi lại khuất đi nhưng mãi chỉ là còn trong hoài niệm. Nỗi nhớ chơi vơi này cùng với cảnh thiên nhiên bồng bềnh, sương khói gợi sự chênh chao giữa hai bờ hư- ảo
=> Sử dụng cụm từ “ nhớ chơi vơi” rất phù hợp và tinh tế.
– Nhà thơ đã nhắc tới một loạt các địa danh: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát. Đó là những nơi đã từng gắn bó và in dấu chân của người lính Tây Tiến. Chỉ cần nhắc đến những địa danh đó là bao nhiêu kỉ niệm chợt ùa hiện về.
– Câu thơ: “ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+ Cho thấy được chặng đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến, bắt đầu từ sáng sớm tinh mơ, khi những làn sương còn bao phủ khắp quang cảnh sông núi. Ắt hẳn địa hình phải có độ cao, độ dài nên đã làm cho đoàn quân mỏi mệt. Ta hình dung ra một khung cảnh mịt mờ những sương là sương buổi sớm, che lấp- khuất đi những dãy núi trước mắt. Tất cả như chỉ còn độc một màu trắng của mây trời và màn sương.
+ Bắt đầu chặng hành trình từ sáng sớm tinh mơ và tạm dừng chân nghỉ khi trời đã đêm: “ đêm hơi”, một chặng hành trình dài, có thể còn là ở những ngày tiếp theo, sau nữa, vẫn là cả những ngày dài nối tiếp nhau như thế.
b. Bốn câu tuyệt bút:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây sung ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
– Bốn câu thơ được coi là tuyệt bút của bài thơ Tây Tiến, đặc tả địa hình hiểm trở- nơi mà đoàn binh Tây Tiến phải vượt qua trên chặng đường hành quân
– Con đường phải đi qua của họ có độ cao hiểm trở. Tính từ “khúc khuỷu” gợi cho ta về độ dốc nhưng không phải dốc vừa, dốc nhưng con đường lên dốc không trơn bằng. Dốc gồ ghề, cheo leo, gặp nhiều chướng ngại vật, tưởng chừng như chỉ thấy sừng sững những dãy núi trước mặt mà khuất đi những địa hình dốc núi kế tiếp.
– Không chỉ dốc cao cheo leo, khúc khuỷu mà dốc còn dài, xa thăm thẳm, heo hút. Đứng đầu này dốc, ta như không thể nhìn thấy và lường trước được con đường tiếp theo, có lẽ. nó cũng chỉ những dốc và dốc. Dốc thăm thẳm gợi nên chặng đường dài miên man, bất tận, không có điểm dừng, sâu hun hút, không biết đâu mới là điểm cuối.
+ Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có 7 tiếng, thì đã có 5 tiếng là thanh trắc, gợi sự cheo leo, trúc trắc, gập ghềnh khó đi.
– Địa hình hiểm trở đó, cùng với hình ảnh chiến sĩ Tây Tiên khi đang hành quân khiến cho nhà thơ có một sự liên tưởng rất hóm hỉnh và tinh nghịch, Địa hình cao ngút trời dường như đã rút ngắn khoàng cách giữa con người với mây trời bao la vũ trụ. Dáng những cây súng được chiến binh Tây Tiến đeo phía sau lưng, hay ở bên hông như tiếp chạm vào những đám mây, cồn mây và tiến tới ngửi trời mây.
– Không chỉ địa hình cứ thế liền một mạch cao mà nó sẽ có độ hẫng, cao dốc chất ngất rồi lại thấp, thả dốc đột ngột với một độ cao kinh hoàng “ngàn thước”, tạo thế vô cùng hẫng và nguy hiểm :“ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Câu thơ này ngắt nhịp 4/3, kết hợp với thanh điệu mỗi vế : B-T-B-B/ B-T-T tạo âm hưởng nhịp nhàng mang tính nhạc.
– Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi: Ba câu trên đa phần sử dụng thanh trắc thì ở câu thứ tư này lại được thả toàn bằng thanh bằng. Trên đường hành quân, đâu đó thấy thấp thoáng những ngôi nhà của dân làng đang ảo diệu trong làng sương hơi của đất trời. Câu thơ tạo sự nhẹ bẫng, như một sự nhìn ngắm, giải lao trên đường hành quân gian khổ , đầy mỏi mệt.
– Nếu như ba câu đầu đa phẩn sử dụng thanh trắc, giọng điệu nhanh gấp, chắc khỏe thì câu kết lại với giọng điệu nhẹ bẫng, như trôi đằm cùng với làn sương hơi bồng bềnh đang chờn vờn bao quanh những dãy núi, những bản làng, tạo cho tổng thể khổ thơ sự cân bằng.
– Nghệ thuật: Quang Dũng là một nghệ sĩ đa đa tài. Ngoài sáng tác văn học, ông còn biết vẽ tranh và soạn nhạc. Ông đã dùng sự đa tài, khả năng cảm thụ nhạc – họa để vận dụng vào việc làm thơ. Khổ thơ trên là tuyệt bút của toàn bài thơ, hiện lên cho độc giả thấy đó là một bức tranh được tạo nên từ những nét vẽ gân guốc, chắc khỏe chứ không chỉ dừng lại là những câu thơ. Cùng với sự kết hợp linh hoạt, nhịp nhàng giữa các thanh B-T tạo nên tính nhạc. Bốn câu thơ tuyệt bút này bao trọn được ý : thi trung hữu họa và thi trung hữu nhạc.
c. Bốn câu tiếp: Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
– Nhà thơ có nói đên hình ảnh người lính gian khổ hi sinh nhưng vẫn rất thanh thản. Hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục trên súng mũ bỏ quên đời” có hai cách nghĩ cách hiểu.
+ Cách hiểu thứ nhất là chiến sĩ Tây Tiến hi sinh, các anh chìm vào giấc ngủ nghìn thu, vĩnh viễn không bao giờ tỉnh dậy.
+ Cách hiểu thứ hai là các anh tạm dừng chân, tranh thủ chợp mắt để lấy phút giây thanh thản, lấy sức và tinh thần cho hành trình kế tiếp. Dù hiểu theo cách nào thì ta luôn thấy hiện diện hình ảnh các anh kiên cường, anh dũng. Dù chết nhưng vẫn trong tư thế “ gục trên sũng mũ”, bên cạnh những hành trang chiến đấu, luôn trong tư thế chiến đấu.
– Cụm từ “ bỏ quên đời” cho thấy sự hi sinh thanh thản, chẳng tiếc nuối đời mình, chỉ mong cống hiến sức trẻ của mình trong việc góp phần đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
– Khung cảnh không gian thiên nhiên không chỉ được gợi ra bởi độ cao độ sâu, mà còn được Quang Dũng quan sát, khai thác, mở rộng ra thành không gian nhiều chiều, thật hoang vu bí hiểm.
+ Thời gian được nói đến là : “ chiều chiều”, “ đêm đêm”, một khoảng thời gian nguy hiểm, vắng lặng, hoang vu, gợi sự bí hiểm nhất . Cách viết của tác giả cho chúng ta cảm giác về một không gian rợn ngợp, bởi tiếng thác nước oai linh, sự rùng mình trước sự nguy hiểm tính mạng với thú dữ chúa tể Sơn Lâm.
+ Cụm từ “ cọp trêu người có giá trị nghệ thuật. Tác giả dùng “cọp trêu người” , chứ không phải cọp dọa người hay cọp đuổi người. Cách viết này thể hiện rõ bút pháp lãng mạn của nhà thơ. Họ không nề hà hiểm nguy, thú dữ nguy hiểm rình rập chỉ là một thử thách quá nhỏ đối với họ, nên họ coi sự rình rập của hổ chỉ như mọt trò đùa. Qua đó, cho thấy được sự gan bạo và tinh thần lạc quan, nét vui tươi hóm hỉnh, tinh nghịch của các chiến binh Tây Tiến.
d. Hai câu tiếp theo:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
– Được biết đây là hình ảnh có thật của các chiến sĩ, sau khi hành quân, tầm chiều tối, các anh được ghé vào nhà dân làng, được cùng với gia đình họ dùng những bữa ăn thơm mùi gạo nếp.
– Sử dụng từ ngữ “ mùa em” là một cách nói đầy ý nhị và đa điệu, cho thấy sự hóm hỉnh, say mê vẻ dịu dàng của những thiếu nữ sơn cước thùy mị, khéo tay của chiến sĩ Tây Tiến.
– Hình ảnh “ cơm lên khói” và những bát xôi nếp thơm hay cũng chính là tấm lòng thơm thảo của dân làng. => Qua đó cho thấy được một tấm lòng , tình nghĩa của dân làng, của con người Mai Châu – Tây Bắc đối với bộ đội ta.
2. Đoạn 2: Qua nỗi nhớ để hiện lên kỉ niệm về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước Tây Bắc
a. Khổ đầu: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
– Cảm hứng và bút pháp lãng mạn trong khổ thơ này thể hiện ở việc họ liên tưởng đêm liên hoan văn nghệ này như một “ hội đuốc hoa”, cùng với hình ảnh của các cô gái e ấp, tình tứ rất giống với không khí trong lễ cưới.
– Khổ thơ này có hai ý hiểu.
+ Cách một là các chiến sĩ Tây Tiến, sau những chặng đường hành quân gian khổ thì giờ đây tối đến, khi có những điều kiện để tạm nghỉ ngơi thì các anh tự tổ chức đêm liên hoan văn nghệ trong doanh trại của mình. Như vậy, thì hình ảnh “ kìa em xiêm áo tự bao giờ”, đó là do các chiến sĩ Tây Tiến tếu táo, hài hước tự cải trang, đóng giả gái, thành những thiếu nữ sơn cước. Môi trường của họ toàn nam nên việc thiếu vắng những bóng hồng, họ tự đóng giả gái để tạo niềm vui, quên đi những nhọc nhằn hành quân cũng là một giả thiết có lí.
+Cách hiểu thứ hai, đây là đêm liên hoan văn nghệ của các chiến sĩ Tây Tiến tổ chức trong doanh trại quân đội và có sự góp vui của dân làng. Nếu hiểu theo cách này thì hình ảnh “ kìa em xiêm áo tự bao giờ” lại chính là hình ảnh của những dáng hồng sơn cước, trong trang phục biểu diễn đẹp đẽ, lộng lẫy, chuẩn bị cho những tiết mục văn nghệ của mình.
– Từ “kìa” chỉ một ai đó / vật nào đó ( ở đây chỉ người) đang ở khoảng cách xa hơn so với mình. Nó là một sự phát hiện , thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên với con mắt trầm trồ, chiêm ngưỡng của các anh bộ đội. Các dáng hồng sơn cước đã đẹp một vẻ đẹp nữ tính thuần Việt, nay lại càng thêm lung linh, rực rỡ trong trang phục của những bộ xiêm y lộng lẫy. Họ càng làm say mê, đắm lòng các chiến sĩ bằng những dáng vẻ , điệu bộ “ e ấp”, tình tứ duyên dáng, hòa hồn vào với những điệu khèn, điệu múa truyền thống, làm nên cảm xúc lãng mạn, hào hoa, chắp cánh cho hồn thơ của các chiến sĩ Tây Tiến. Các anh bộ đội như chất ngất , nghiêng ngả trong âm thanh của tiếng khèn, trong ánh sáng của lửa đêm, trong điệu múa điệu xòe. Sau đó có thể là những nụ cười, ánh mắt yêu đời, tinh nghịch của những chiến sĩ Tây Tiến phong độ, đa tình.
– Câu thơ : “ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” cho thấy được tâm hồn của chiến sĩ Tây Tiến cũng hướng về vẻ đẹp của xứ lạ phương xa.
=> Sau chặng hành quân gian khổ, việc tổ chức đêm liên hoan văn nghệ này cho thấy được tinh thần lạc quan, yêu đời, nét lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến. Đâu chắc chắn sẽ trở thành một kỉ niệm đẹp không bao giờ quên trong tâm hồn họ.
– Nguyên nhân: Điều này có ảnh hưởng lớn từ nguồn gốc xuất thân. Họ đều là những chàng trai Hà Nội gốc, trẻ tuổi, là trí thức học sinh hoặc sinh viên nên còn trong mình những mơ mộng, hồn nhiên tuổi trẻ, họ cần có nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần.
b. Khổ sau: Cảnh sông nước Châu Mộc – Tây Bắc
Người đi Châu Mộc chiêu sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
– Đây là vẻ đẹp thực, được hiện lên huyền ảo qua không gian và thời gian. Thời gian buổi chiều tĩnh lặng, có làn sương giăng nhẹ. Không gian là dòng sông với đôi bờ lất phất rặng lau, những bông lau chập chờn lay động dường như cũng có hồn, hay chính tâm hồn nhà thơ đã nhập vào cảnh vật? Con sông vắng lặng hoang sơ thiên nhiên khiến ta liên tưởng đến con sông hoang dại, như một nỗi niềm cổ tích xưa ( Nguyễn Tuân).
– Trên nền cảnh thiên nhiên thơ mộng đó có người thiếu nữ Tây Bắc đang mềm mại, uyển chuyển , thân hình mảnh mai nhưng lại vững chắc trên độc mộc, chèo lái trên sông?
– Câu thơ tiếp theo : “ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
+ “ Hoa đong đưa” chứ không phải hoa đung đưa. Đung đưa diễn tả trạng thái chuyển động vật lí đơn thuần. Còn đong đưa là một chuyển động có tâm trạng, làm cho những ngọn lau, bông lau như những sinh thể có hồn. Dường như hoa cũng biết soi mình xuống dòng nước sông để làm duyên làm dáng.
– Sử dụng từ ngữ tinh tế, sáng tạo và bút pháp lãng mạn.
=> Cảnh và người đan hòa vào nhau, không rõ nét mà mờ nhòa, ẩn hiện
3. Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh cao đẹp của các anh
a. Hai câu đầu: Đặc tả chân dung, dáng vẻ của chiến binh Tây Tiến
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
– Chân dung, dáng vẻ của các chiến sĩ Tây Tiến được hiện lên một cách hiện thực nhưng không trần trụi mà được lãng mạn hóa bởi cảm hứng và bút pháp nghệ thuật: “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc /
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
+ Căn bệnh sốt rét rừng làm cho họ không mọc được tóc, nước da thì xanh bủng beo thiếu sức sống, nhưng không vì thế mà bi lụy. Tác giả dùng là “ không mọc tóc” chứ không phải là tóc không mọc. Nếu như là tóc không mọc thì là sự bị động, muốn tóc mọc nhưng tóc lại không mọc được. Còn nói là “ không mọc tóc” ý chỉ sự chủ động, không cần mọc tóc, không bị chịu sự tác động của nguyên nhân khách quan.
=> Điều này cũng cho chúng ta thấy rõ được sự can đảm, dám đương đầu với hoàn cảnh bệnh tất khó khăn, tinh thần lạc quan, yêu đời của họ. Màu da xanh xao của các anh hòa vào cùng với màu xanh của núi rừng đại ngàn. Thân hình ốm yếu của bệnh tật nhưng không bi lụy mà nhờ bút pháp lãng mạn, hình ảnh của những anh vệ trọc được hiện lên thật oai phong , lẫm liệt như mãnh hổ, chúa sơn lâm ngự trị , làm chủ rừng thiêng.
b. Đời sống tâm hồn, mộng ước :
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
– Hình ảnh “ mắt trừng” diễn tả tinh thần và ý chí quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Đó là giấc mộng lập chiến công, truy kích giặc. Đó còn là giấc mơ về những thiếu nữ nơi Hà thành thanh lịch.
+ Xưa ca dao có câu: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. “ Người Tràng An ý chỉ người kinh đô, thường thanh lịch, đài các, nền nã. Và ở đây những cô gái Hà Nội cũng vậy, họ ở thủ đô, với những đặc điểm con người như vậy.
+ “ Dáng kiều” là những thân hình đẹp mỏng manh của những thiếu nữ Hà Nội, còn từ “ thơm” là một từ ngữ nói đến một người con gái đẹp sắc nước hương trời.
+ Dáng kiều thơm cũng chính là cách nói văn chương thấm đẫm tinh thần , vẻ đẹp của văn học cổ, có thể đó là một trong những điều mà những người lính trẻ này đã được học trên ghế nhà trường thời học sinh- sinh viên.
– Trong hoàn cảnh rời quê hương đi chiến đấu, những người lính thường có tâm trạng khắc khoải, nhớ nhung về những điều thân thuộc, gần gũi , ấn tượng với cá nhân mình.
+ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính ( Đồng chí- Chính Hữu)
+ Nhớ vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya ( Nhớ- Hồng Nguyên)
=>Đó đều là những nỗi nhớ chân tình, mộc mạc, gắn liền với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc như trong ca dao , tục ngữ xưa. => Xuất thân: nông dân
– Người lính Tây Tiến lại nhớ về “ dáng kiều thơm”, lại hướng về những mộng mơ có phần táo bạo.
=> Nguyên nhân : tri thức trẻ Hà thành.
c. Lí tưởng chiến đấu và sự hi sinh của các chiến sĩ Tây Tiến:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
– Lí tưởng chiến đấu coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. “ Đời xanh chỉ tuổi trẻ, tuổi thanh xuân, tuổi đẹp nhất, tràn nhiệt huyết và nhiều mộng mơ của một đời con người. Câu thơ “ chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” cho chúng ta thấy được sự tự nguyện, hiến dâng chẳng tiếc nuối tuổi trẻ của các anh, chỉ mong sao góp sức mình để thực hiện được cái mộng gửi qua biên giới. Thực chất đó là tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, là lòng dũng cảm và lòng yêu nước nồng nàn mới có được, bởi:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”
(Trích “ Trường ca những người đi tới biển” – Thanh Thảo)
–> Sự “ chẳng tiếc” đó là một cách nói ngang tàng, một thái độ tự nguyện với một tâm trạng hết sức thanh thản.
– Cái chết: Những nấm mồ nằm rải rác hoang khắp chốn, nơi rừng sâu biên giới, ít người qua lại, ít có điều kiện hương khói khiến cho chúng ta không khỏi bùi ngùi xót xa. Sau cái chết đó, có đồng đội bên cạnh, chôn cất các anh, tuy nhiên còn chưa có được điều kiện chôn cất đàng hoàng vì còn phải tiếp tục lên đường chiến đấu tiếp.
– Cái chết của các anh được gợi lên qua hình ảnh “ áo bào thay chiếu”. Đây là tư thế được bao bọc bởi tấm chiếu mà đồng bào mang ra để khâm liệm người chết. Hoặc cũng có ý nhà thơ quá ngưỡng mộ và thương các anh, tự coi các anh như những tráng sĩ thời xưa, có áo bào, có giáp sắt, nhưng đó mãi là một bút pháp lãng mạn vì sự thật ở đây là áo bào thay bằng chiếu. Không có chiếu mà lại có áo bào. Cách sử dụng từ áo bào là từ Hán Việt cũng cho ta thấy sự trang trọng, tôn thờ các anh
– Hình ảnh “ sông Mã gầm lên khúc độc hành” chính là một hành khúc của sông Mã, khóc thương cho sự hi sinh cao cả của các anh, một sự đau thương dồn nén. Sông Mã là thiên nhiên, là quê hương đất nước. Dường như cả đất trời, quê hương đang nghiêng mình tiễn biệt người lính Tây Tiến.
=> Cái bi nhưng không bị lụy mà mà bi tráng, hào hùng.
– Cụm từ : “ anh về đất” là cách nói giảm nói tránh, cách nói không trực tiếp để vơi đi nỗi đau thương và vĩnh viễn hóa sự hi sinh cao đẹp. “Về đất” là trở về với đất mẹ thân yêu. “Về đất” là linh hồn của các anh được hóa thân vào đất mẹ, tồn tại mãi với non sông đất nước Việt Nam này.
=> Cái chết bi tráng thông qua cảm hứng và bút pháp lãng mạn dày đặc.
4. Đoạn 4: Sự gắn bó, tình nghĩa của nhà thơ đối với mảnh đất và con người Tây Bắ
– Bốn câu cuối này là sự tình nghĩa và gắn bó của nhà thơ, cũng như các chiến sĩ Tây Tiến dành cho vùng đất Tây Bắc. Đó không phải là quê hương họ, mà là địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến- nơi họ gắn bó cả tuổi thanh xuân, nhưng:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
– Cảm xúc bịn rịn, lưu luyến khi chia xa mảnh đất này dường như vẫn luôn tồn tại, sự nhớ nhung da diết , chia phôi với nơi đây luôn thường trực mỗi khi nhắc tới. Nặng lòng tới mức đánh rơi hồn ví, tình cảm chân thành, giản dị , mộc mạc ở nơi đây:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
=> Cảm xúc và kỉ niệm sống tuyệt vời chẳng thể nào quên được trong hành trình cuộc đời của những chiến sĩ Tây Tiến.
– Nghệ thuật: Bộc lộ tình cảm, cảm xúc một cách trực tiếp.
III. Tổng kết
1. Nội dung
– Khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp anh hùng nhưng cũng rất lãng mạn, hào hoa trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ.
2. Nghệ thuật
– Cảm hứng và bút pháp lãng mạn đậm chất bi tráng
– Nhịp thơ linh hoạt, khi thì ngắt nhịp nhanh, chắc khỏe , lúc lại nhẹ bẫng , tạo sự cân đối ở toàn bài