Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 2022 | Mytranshop.com

I. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng nước ta sau hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương

1. Tình hình

* Với Hiệp định Giơnevơ, cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương có Mĩ giúp đã chấm dứt.

a. Miền Bắc

– Ngày 10/10/1954, quân ta tiếp quản Hà Nội.

– Ngày 1/1/1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân thủ đô.

– Ngày 16/5/1955, Pháp rời khỏi Hải Phòng, miền Bắc hoàn toàn giải phóng.

b. Miền Nam

– Giữa tháng 5/1956, Pháp rút khỏi miền Nam khi chưa thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Giơnevơ.

– Mĩ thay Pháp, đưa tay sai Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ở miền Nam, âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự ở Đông Dương và Đông Nam Á.

– Với âm mưu của Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền.

2. Nhiệm vụ

– Những âm mưu của Mĩ – Diệm ở miền Nam đã đưa đất nước đứng trước nguy cơ bị chia cắt lâu dài; miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, miền Nam rơi vào tay đế quốc Mĩ. Trước tình thế đó, Đảng ta đã đề ra hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau cho hai miền.

+ Miền Bắc: chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế… xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước và hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở miền Nam.

+ Miền Nam: Tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống lại chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mĩ, tiến đến giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

– Hai nhiệm vụ trên tuy khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích chung là đánh đổ đế quốc Mĩ và tay sai của chúng để đi đến thống nhất đất nước. Trong đó, miền Bắc giữ vai trò là hậu phương, đảm bảo cho sự thắng lợi của toàn cuộc cách mạng; miền Nam là tiền tuyến trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ và tay sai.

II. Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất (1954 – 1960)

1. Hoàn thành cải cách ruộng đất (1954 – 1957)

– Do thực tế ở miền Bắc, yêu cầu của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận thống nhất. Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương ra nghị quyết: “Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất”.

– Trong hơn 2 năm (1954 – 1956), qua 5 đợt cải cách ruộng đất (kể cả đợt 1 tiến hành trong kháng chiến), miền Bắc đã tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn hécta ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ chia cho 2 triệu hộ nông dân lao động. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực.

– Hạn chế: ta phạm một số sai lầm như đấu tố tràn lan cả những địa chủ kháng chiến có công với cách mạng… Quy nhầm một số nông dân, cán bộ, đảng viên thành địa chủ. Đảng, Chính phủ phát hiện và kịp thời sửa chữa trong năm 1957 nên hậu quả sai lầm được hạn chế và ý nghĩa thắng lợi của cải cách ruộng đất vẫn to lớn, khối công nông liên minh được củng cố.

III. Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ – Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng tiến tới “Đồng Khởi” (1954 – 1960)

1. Phong trào Đồng Khởi (1959 – 1960)

a. Nguyên nhân

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  2184, Bài số 5, Level 1, 2022 | Mytranshop.com

– Từ năm 1957 – 1959: Ngô Đình Diệm ban hành chính sách “tố cộng, diệt cộng”, ra đạo luật 10/59 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, lê máy chém khắp miền Nam làm lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng, đòi hỏi phải có biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng vượt qua khó khăn.

– Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương Đảng 15 xác định: cách mạng miền Nam không có con đường nào khác là sử dụng bạo lực cách mạng đánh đổ chính quyền Mĩ – Diệm. Phương hướng cơ bản là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang.

b. Diễn biến

– Lúc đầu phong trào nổ ra lẻ tẻ ở Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận) vào 2/1959, Trà Bồng (8/1959)…, sau lan khắp miền Nam thành cao trào cách mạng, tiêu biểu là cuộc Đồng khởi ở Bến Tre.

– Ngày 17/1/1960, Đồng khởi nổ ra ở 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre), từ đó lan khắp huyện Mỏ Cày và tỉnh Bến Tre (huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Châu Thành…).

– Quần chúng nổi dậy giải tán chính quyền địch, lập Ủy ban nhân dân tự quản, lập lực lượng vũ trang, tịch thu ruộng đất của địa chủ, cường hào chia cho dân cày nghèo.

– Phong trào lan khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung bộ. Cuối năm 1960, ta làm chủ 600/1298 xã ở Nam Bộ, 3200/5721 làng ở Tây Nguyên, 904/3829 thôn ở Trung Trung Bộ.

c. Ý nghĩa

– Giáng đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mĩ, làm lung lay tận gốc chế độ tay sai Ngô Đình Diệm.

– Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

– Từ khí thế đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch). Mặt trận đoàn kết toàn dân chống Mĩ – Diệm, lập chính quyền cách mạng dưới hình thức Ủy ban nhân dân tự quản.

VI. Miền Bắc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961 – 1965)

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960)

a. Hoàn cảnh lịch sử

– Giữa lúc cách mạng hai miền Nam – Bắc có những bước tiến quan trọng, miền Bắc thắng lợi trong việc cải tạo và khôi phục kinh tế, cách mạng miền Nam nhảy vọt sau Đồng Khởi.

– Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III từ ngày 5 đến 10/9/1960 tại Hà Nội.

b. Nội dung

– Đề ra nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng cả nước và từng miền:

+ Miền Bắc cách mạng xã hội chủ nghĩa có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước.

+ Miền Nam cách mạng Dân tộc Dân chủ nhân dân có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam.

+ Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó nhau nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

– Đối với miền Bắc, Đại hội khẳng đinh đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

– Thông qua “Báo cáo chính trị”, “Báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng” và  thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hộiở miền Bắc.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Rau chân vịt - “Thần dược” cho sức khỏe của bạn 2022 | Mytranshop.com

– Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng, bầu Bộ Chính trị. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Lê Duẩn được bầu là Bí thư thứ nhất của Đảng.

2. Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 – 1965)

* Bước vào kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, miền Bắc chuyển sang giai đoạn lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm.

– Nhiệm vụ

+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm.

+ Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp.

+ Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa.

+ Củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh.

+ Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.

+ Củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự và an ninh xã hội.

– Công nghiệp

+ Được ưu tiên xây dựng, vốn đầu tư chiếm 48%, trong đó công nghiệp nặng chiếm 80%.

+ Giá trị sản lượng công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với 1960.

+ Công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng 93% tổng giá trị sản lượng công nghiệp miền Bắc, giữ vai trò chủ đạo.

+ Công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công đã giải quyết được 80% hàng tiêu dùng.

– Nông nghiệp

+ Đại bộ phận nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp.

+ Các hợp tác xã bậc cao ra đời, áp dụng khoa học – kĩ thuật.

+ Hệ thống thủy nông phát triển.

+ Nhiều hợp tác xã vượt năng suất 5 tấn thóc/ha.

– Thương nghiệp

+ Thương nghiệp quốc doanh được được ưu tiên phát triển, góp phần phát triển kinh tế.

+ Củng cố quan hệ sản xuất mới, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.

– Giao thông

+ Đường bộ, đường sắt, đường liên tỉnh, đường sông, đường hàng không được củng cố.

+ Việc đi lại trong nước và giao thông quốc tế thuận lợi.

– Giáo dục – y tế

+ Giáo dục từ phổ thông đến đại học phát triển nhanh.

+ Xây dựng 6000 cơ sở y tế, xóa bỏ nhiều dịch bệnh.

– Nghĩa vụ hậu phương

+ Chi viện cho miền Nam vũ khí, đạn dược, thuốc men.

+ Nhiều đơn vị vũ trang, cán bộ quân sự, y tế giáo dục, bộ đội đưa vào nam chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng.

– Kế hoạch 5 năm đang thực hiện có kết quả ngày 7/2/1965, Mĩ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, miền Bắc chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện chiến tranh.

V. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ (1961 – 1965)

1. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam

a. Bối cảnh lịch sử: Cuối năm 1960, sau phong trào Đồng khởi hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị thất bại, Mĩ thực hiện “Chiến tranh đặc biệt” (1960 – 1965).

b. Âm mưu

– “Chiến tranh đặc biệt” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống “cố vấn” Mĩ, dựa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ, nhằm chống lại phong trào cách mạng của nhân dân ta.

– Âm mưu cơ bản: “dùng người Việt đánh người Việt”.

c. Thủ đoạn

– Đề ra kế hoạch Staley – Taylor, bình định miền Nam trong 18 tháng.

– Tăng viện trợ quân sự cho Diệm, tăng cường cố vấn Mĩ và lực lượng quân đội Sài Gòn.

– Tiến hành dồn dân lập “Ấp chiến lược”, trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới như “trực thăng vận” và  “thiết xa vận”.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Bật mí cách trị mụn cho da dầu hiệu quả từ chuyên gia hiệu quả 2022 | Mytranshop.com

 – “Ấp chiến lược” được Mĩ và Ngụy coi như “xương sống” của “Chiến tranh đặc biệt”.

– Thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mĩ ở miền Nam (MACV) để trực tiếp chỉ huy quân đội Sài Gòn.

 

– Mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, phong tỏa biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.

2. Miền Nam chiến đấu chống “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ

a. Hoàn chỉnh về tổ chức lãnh đạo

– Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.

– Tháng 1/1961, Trung ương cục miền Nam thành lập.

– Tháng 2/1961, các lực lượng vũ trang thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam.

– Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Đảng lãnh đạo nhân dân ta kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy tiến công địch trên ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị), bằng ba mũi giáp công (chính trị, quân sự, binh vận).

b. Đánh bại kế hoạch Staley – Taylor (1961 – 1963)

* Từ năm 1961-1962: quân giải phóng đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của địch.

* Đấu tranh chống và phá “Ấp chiến lược”: diễn ra gay go quyết liệt giữa ta và địch. Ta phá “ấp chiến lược” đi đôi với dựng làng chiến đấu. Cuối năm 1962, ta kiểm soát trên nửa tổng số ấp với 70% nông dân ở miền Nam.

* Trên mặt trận quân sự: 2/1/1963, quân dân ta thắng lớn ở trận Ấp Bắc (Mĩ Tho), đánh bại cuộc hành quân càn quét của 2000 lính Sài Gòn có cố vấn Mĩ chỉ huy, với phương tiện chiến tranh hiện đại.

* Đấu tranh chính trị

– Diễn ra mạnh mẽ khắp các đô thị lớn, nổi bật là đấu tranh của “đội quân tóc dài”, của các tín đồ Phật giáo… Góp phần đẩy nhanh quá trình suy sụp của chính quyền Ngô Đình Diệm.

– Ngày 1/11/1963, Mĩ giật dây Dương Văn Minh đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng khủng hoảng.

c. Đánh bại kế hoạch Giôn xơn – Mácnamara (Johnson – Mac Namara) (1964 – 1965)

* Nội dung của kế hoạch

– Tăng cường viện trợ quân sự, ổn định chính quyền Sài Gòn, bình định có trọng điểm miền Nam.

– Bình định miền Nam có trọng điểm trong hai năm (1964 – 1965).

* Đánh phá “Ấp chiến lược”: từng mảng lớn “Ấp chiến lược” của địch bị phá vỡ, làm phá sản cơ bản “xương sống” của “Chiến tranh đặc biệt”. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng, chính quyền cách mạng các cấp thành lập.

* Về quân sự

– Đông – Xuân 1964 – 1965, ta thắng lớn ở trận Bình Giã (2/12/1964), loại 1700 tên địch khỏi vòng chiến, đánh bại chiến lược “trực thăng vận” và “thiết xa vận”.

– Sau đó, ta tiếp tục giành thắng lợi ở An Lão, Ba Gia, Đồng Xoài…

– Đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ bị phá sản.

3. Ý nghĩa

– Cách mạng miền Nam tiếp tục giữ vững thế chủ động tiến công.

– Mĩ đã thất bại trong việc sử dụng miền Nam Việt Nam làm thí điểm một loại hình chiến tranh để đàn áp phong trào cách mạng trên thế giới.

– Mĩ buộc phải chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (tức thừa nhận sự thất bại của “Chiến tranh đặc biệt”).

– Chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng đắn và sự trưởng thành nhanh chóng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Leave a Comment