Việt Bắc – Tố Hữu, trắc nghiệm ngữ văn lớp 12 2022 | Mytranshop.com

A. TÁC GIẢ

I. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ

– Tố Hữu (1920 -2002), tên khai sinh Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ở Thừa Thiên Huế – mảnh đất thơ mộng trữ tình & còn lưu giữ nhiều nét văn hóa dân gian →  bồi đắp cho hồn thơ Tố Hữu giàu cảm xúc, giàu lòng yêu thương con người.
– Tuổi thanh niên sớm giác ngộ Cách mạng & hăng say hoạt động , kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân →  trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn Thanh niên dân chủ ở Huế, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương .

– Trong Cách mạng tháng 8 & hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp & đế quốc Mĩ, ông liên tục giữ nhiều cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hóa văn nghệ & trong bộ máy lãnh đạo của Đảng & Nhà nước.

II. ĐƯỜNG CÁCH MẠNG, ĐƯỜNG THƠ

Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng đồng thời cũng thể hiện sự vận động trong tư tưởng và  nghệ thuật của nhà thơ

1. Tập thơ “Từ ấy” (1937­- 1946): gồm 71 bài sáng tác trong 10 năm (1936 – 1946). Tác phẩm được chia làm ba phần:

– “Máu lửa” (27 bài) được viết trong thời kì đấu tranh của Mặt trận dân chủ Đông Dương, chống phát xít, phong kiến, đòi cơm áo, hòa bình…

– “Xiềng xích” (30 bài) được viết trong nhà giam thể hiện nỗi buồn đau và ý chí, khí phách của người chiến sĩ cách mạng.

– “Giải phóng” (14 bài) viết từ lúc vượt ngục đến 1 năm sau ngày độc lập nhằm ngợi ca lí tưởng, quyết tâm đuổi giặc cứu nước và thể hiện niềm vui chiến thắng.

– Những bài thơ tiêu biểu: “Mồ côi”, “Hai đứa bé”, “Từ ấy”,…

2. Tập thơ “Việt Bắc” (1946­- 1954): Gồm 24 bài sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

– “Việt Bắc” là bức tranh tâm tình của con người VN trong kháng chiến với những cung bậc cảm xúc tiêu biểu: tình yêu quê hương đất nước, tình đồng chí đồng đội, tình quân dân, lòng thủy chung cách mạng. Đồng thời thể hiện quyết tâm bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước.

– Những bài thơ tiêu biểu: “Phá đường”, “Việt Bắc”, “Bầm ơi”, “Ta đi tới”,…

3. “Gió lộng” (1955­- 1961):

– Tác phẩm thể hiện niềm vui chiến thắng, cuộc sống mới với những quan hệ xã hội tốt đẹp. Còn là lòng tri ân nghĩa tình  đối với Đảng, Bác Hồ và nhân dân.

– Những bài thơ tiêu biểu: “Trên miền Bắc mùa xuân”; “Thù muôn đời muôn kiếp không tan”; “Mẹ Tơm”; “Bài ca xuân 1961”,…

4. “Ra trận” (1962­- 1971), “Máu và Hoa” (1972­ -1977)

Phản ánh cuộc đấu tranh của dân tộc, kêu gọi cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc . Ca ngợi Bác Hồ, tổng kết lịch sử đấu tranh.

* Từ sau năm 1977, thơ Tố Hữu được tập hợp và in trong hai tập “Một tiếng đàn” ( 1992) và “Ta với ta” (1999). Thơ Tố Hữu giai đoạn này trầm lắng và suy tư hơn. Nhiều bài thơ thể hiện sâu sắc những chiêm nghiệm về cuộc sống, về lẽ đời mong kiếm tìm những giá trị mang tính bền vững.

III. PHONG CÁCH THƠ TỐ HỮU

1. Chất trữ tình chính trị (nét nổi bật nhất trong phong cách thơ Tố Hữu)

– Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với sự giác ngộ lí tưởng cách mạng của nhà thơ. Các chặng đường thơ của ông gắn bó mật thiết với các chặng đường của cuộc đấu tranh cách mạng.

– Lí tưởng cách mạng là ngọn nguồn mọi cảm hứng nghệ thuật của Tố Hữu.

– Với Tố Hữu làm thơ là một hành động cách mạng nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh cho sự thắng lợi của lí tưởng cách mạng.

– Lí tưởng, thực tiễn đời sống cách mạng và những mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng đã chi phối từ quan niệm nghệ thuật đến đề tài, chủ đề, từ cảm hứng chủ đạo đến nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu.

2. Giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:

– Bám sát đời sống chính trị, cách mạng của đất nước, phản ánh đến những vấn đề có liên quan đến số phận của dân tộc.

– Bao trùm tác phẩm của Tố Hữu là cảm hứng lịch sử ­ dân tộc . Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu thường nhân danh Đảng, dân tộc và thời đại, nhân vật trữ tình hội tụ những phẩm chất của giai cấp, của cộng đồng.

* Cùng với khuynh hướng sử thi, ngòi bút Tố Hữu còn giàu cảm hứng lãng mạn: tiếng nói ngợi ca, khẳng định lí tưởng, ngợi ca vẻ đẹp cuộc sống mới, niềm tin mãnh liệt vào ngày chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước.

3. Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết

Đặc điểm này bắt nguồn từ “ chất Huế” của hồn thơ Tố Hữu và quan niệm riêng của ông về thơ ca: ông cho rằng, thơ là chuyện đồng điệu của tâm hồn, là tiếng nói “ có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình, đồng chí”

Chất giọng ấy toát lên từ lối trữ tình trò chuyện, từ những câu thơ như lời thủ thỉ tâm sự, giãy bày, nhắn nhủ đằm thắm , thiết tha: “ Đồng bào ơi, anh chị em ơi, Bạn đời ơi…”, “ Em ạ, Cu Ba ngọt lịm đường”, “ Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan…”

4. Đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật đã mang lại cho thơ Tố Hữu sức rung động lòng người và sức sống lâu bền.

Nhiều tình cảm chính trị là sự tiếp nối , phát huy những truyền thống đạo đức lâu đời của  dân tộc: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, nghĩa tình cách mạng thuỷ chung…

Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ truyền thống đặc biệt là thể lục bát.

Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, giàu nhạc điệu, hình ảnh quen thuộc gần gũi với nhân dân.

B. TÁC PHẨM

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở, đùm bọc Đảng, Chính phủ trong những năm kháng chiến gian khổ.

– Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết (tháng 7 – 1954), hòa bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra.

– Tháng 10 – 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ mà hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, với quê hương Cách mạng. Việt Bắc là tác phẩm xuất sắc của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ Việt Nam hiện đại nói chung trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

2. Bố cục tác phẩm:

Bài thơ chia làm 2 phần:

– Phần đầu: tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người.

– Phần cuối: nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Bác, của Đảng đối với dân tộc.

– Vị trí đoạn trích:  Đoạn trích gồm phần đầu và một số đoạn tiêu biểu ở phần sau.Nội dung: ca ngợi con người và cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng, đồng thời thể hiện tình nghĩa thủy chung giữa người Cách mạng và nhân dân Việt Bắc.

 3. Kết cấu của bài thơ:

– Bài thơ kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca. Nhưng ở đây không chỉ là lời hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng và đồng vọng. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra của lời hỏi mà còn là sự tán đồng, làm cụ thể và phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi, có khi trở thành lời đồng vọng ngân vang những tình cảm thủy chung.

– Đây là lời chia tay, lời chào từ biệt của một người cán bộ để từ biệt Việt Bắc về xuôi. Gọi Việt Bắc là mình – gọi những người thân thiết, yêu quý, gần gũi – nhưng tác giả đã lồng vào đây một tình cảm mới của những người chia tay có tình nghĩa mặn nồng.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  10 phòng tập gym Tân Phú, Hồ Chí Minh tốt nhất 2022 | Mytranshop.com

– Sáng tạo của tác giả: có khi ta và mình là hai nhân vật kẻ ở, người đi nhưng có khi lại tráo đổi cách xưng hô, biến hóa linh hoạt, chuyển hóa đa nghĩa, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, hòa nhập làm một để gợi không khí ca dao, làm cho tình cảm giữa người ra đi với người ở lại, giữa người cán bộ với người dân Việt Bắc thêm gần gũi, thân mật, tự nhiên, chân tình. Hai đại từ này được Tố Hữu sử dụng rất biến hóa: Mình về mình có nhớ ta (mình: người cán bộ ; ta: người Việt Bắc), Ta về mình có nhớ ta (ta: người cán bộ ; mình: người Việt Bắc), Mình đi mình lại nhớ mình (mình – hai chữ đầu: người cán bộ ; mình: người Việt Bắc),…

→  Tác giả đã sử dụng sáng tạo, linh hoạt từ mình, khi chỉ bản thân mình, khi lại chỉ người khác thân thiết như chính mình. Khi lại phân thân, hóa thânđể tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân. Nhưng cuối cùng vẫn là khẳng định tình cảm thắm thiết, keo sơn không thể tách rời giữa những người kháng chiến và nhân dân, đất nước.

– Bằng một âm điệu ngọt ngào, êm ái, trở đi trở lại nhịp nhàng như lời ru, bài thơ đưa người đọc vào thế giới tâm tình đằm thắm đầy ân nghĩa. Trong không khí ấy, mọi cảnh vật thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người, cho đến  các hoạt động kháng chiến đều đậm đà ý vị tình nghĩa, bao bọc trong ánh hồi quang của hoài niệm với nỗi nhớ thiết tha, tất cả tạo nên một không gian – thời gian tâm tưởng cho bài thơ.

II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1. Sắc thái tâm trạng, lối đối đáp của nhân vật trữ tình trong đoạn trích:

– Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…. Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi.

– Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. 

+ Bốn câu đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của ngưòi ở lại,đồng thời cũng khảng định tấm lòng thuỷ chung của mình:

Đại từ “Mình – Ta:: Mối quan hệ gần gũi thân thiết → gợi bao lưu luyến, bâng khuâng, bồn chồn, bịn rịn.

Điệp từ “nhớ” (láy lại)

Lời nhắn nhủ của Việt Bắc: “Mình có nhớ ta, mình có nhớ không” vang lên ray rứt, gợi nỗi nhớ triền miên 15 năm thời gian.

Cây, núi, sông, gợi không gian thời gian hoạt động kháng chiến tại không gian Việt Bắc + 4 câu sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi.

Nghe câu hỏi nên người về bâng khuâng, bồn chồn → Tình cảm thắm thiết của người cán bộ với cảnh và ngưòi Việt Bắc.

Đại từ phiếm chỉ “ai” nhưng lại rất cụ thể gợi sự gần gũi thân thương

“Áo chàm”: Hình ảnh bình dị, chân tình, chỉ người Việt Bắc.

“Cầm tay …..” → Câu thơ bỏ lửng ngập ngừng nhưng đã diễn đạt chính xác thái độ xúc động nghẹn ngào không thể nói nên lời của người cán bộ từ dã Việt Bắc về xuôi..

→  Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. 

2. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc qua hồi tưởng của tác giả

a. Vẻ đẹp thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc:

– Không gian ở đây là cảnh vật của núi rừng Việt Bắc, có những vẻ đẹp riêng biệt độc đáo khác hẳn với những miền quê khác. Cảnh ấy được tái hiện lên trong nỗi nhớ của người cán bộ đã gắn bó lâu năm với Việt Bắc.

– Vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau như sương sớm, nắng chiều, trăng khuya, trong các mùa thay đổi,…

– Cảnh thiên nhiên bốn mùa Việt Bắc:

+ Mùa đông nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ tươicủa hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của nắng ánh từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên đèo cao ngập nắng và lộng gió.

+ Mùa xuân nhớ hoa mơ nở trằng rừng. Chữ trắng là tính từ chỉ màu sắc được chuyển thành bổ ngữ nở trắng rừng, gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng trong sáng, thanh khiết mênh mông và bao la:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón truốt từng sợi giang”

+ Mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàngcủa rừng phách:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Tiếng ve kêu là âm thanh nhưng lại được tác giả cảm nhận bằng sắc màu vàng rực, sóng sánh đổ loang cả rừng phách. Từ đổ diễn tả sự thay đổi luân phiên về thời gian, một chữ đổ rất tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống, đổ xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng.

+ Mùa thu lại nhớ trăng ngàn:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng rọi qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màuhòa bình nên thơ. Câu thơ đã gợi lên sắc màu thanh bình, thơ mộng trong ánh sáng dịu dàng của ánh trăng sáng sau chín năm kháng chiến.

→ Tác giả đã miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng Việt Bắc gắn với các mùa cụ thể, mỗi mùa lại có những đặc trưng riêng biệt để tạo nên một bức tranh tứ bình về cảnh sắc thiên nhiên tươi sáng, mơ mộng và gợi cảm của núi rừng Việt Bắc.

 – Cảnh còn gắn bó với những kỉ niệm thương nhớ vơi đầy của nhà thơ: những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng đêm khuya, những núi rừng sông suối với những cái tên thân thuộc. Tất cả hiện lên lung linh đầy ắp những kỉ niệm của tác giả.

→ Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa,đầy màu sắc lãng mạn, ấm áp lòng người.

Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về cảnh Việt Bắc như vậy.

b. Vẻ đẹp con người Việt Bắc:

– Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:

+ Người Việt Bắc cần lao gian khổ và đầy tình thương yêu chia ngọt sẻ bùi (câu 31→ câu 36).

+ Hình ảnh sinh hoạt của cán bộ Cách mạng trong chiến khu hoà lẫn với sinh hoạt của nhân dân Việt Bắc: Tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, lớp học i tờ, giờ liên hoan

→ Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,… tất cả càng làm Việt Bắc thêm sáng ngời trong tâm trí nhà thơ.

– Nhận xét chung: cứ một câu lục tả cảnh thì một câu bát tả con người. Như vậy, giữa con người và cảnh vật có mối quan hệ khăng khít, giao hòa.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Xăm lông mày có phá tướng không? Đây là những điều cần biết 2022 | Mytranshop.com

– Con người được miêu tả là những con người rất bình thường, nhỏ bé, gắn với những công việc lao động cụ thể nhưng rất giàu ý nghĩa:

+ Nhớ người đi nương, đi rẫy dao gài thắt lưng trong thế mạnh mẽ, hào hùng đứng trên đèo cao nắng ánh,… Con dao của người đi nương đi rẫy phản quang nắng ánh rất gợi cảm: Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

+ Nhớ người thợ thủ công đan nón chuốt từng sợi giang. Chuốt nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng manh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể chuốt từng sợi giang để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch cóánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc.

+ Nhớ cô em gái hái măng một mình – mặc dù hái măng một mìnhnhư vậy nhưng vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa khúc nhạc rừng, hái măng để góp phần nuôi quân. Cô gái hái măng là một nét vẽ trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.

+ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng – hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó, lam lũ, vất vả.

+ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung – Ai là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, nhớ ai là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.

→ Hình ảnh con người được nhà thơ khắc họa có sự đan cài, gắn bó khăng khít với thiên nhiên và hình ảnh con người gắn với những công việc bình thường, cụ thể nhưng họ vẫn là những con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Bằng những việc làm nhỏ bé ấy, bình thường ấy thì họ đã góp phần tạo nên sự thắng lợi to lớn, vĩ đại của cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

 – Hình ảnh con người còn gắn với những kỉ niệm nặng nghĩa ân tình (đây chính là sự lí giải của tác giả về cội nguồn dẫn đến chiến thắng của dân tộc ):

+ Đó là sức mạnh của tình nghĩa thủy chung của những tháng ngày đồng cam cộng khổ:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Cái đẹp nhất là ở nghĩa tình của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng ghánh vác nhiệm vụ. Nghĩa tình càng đẹp hơn trong cuộc sống gian nan, thiếu thốn, càng sắt son, thấm thía trong khó khăn thử thách.

+ Đó là cuộc sống gian khổ nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và tinh thần lạc quan:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”

* Tóm lại, đoạn thơ Tố Hữu viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là đoạn thơ tràn đầy tình cảm nhớ nhung, thương mến. Điệp từ nhớ sao, nhớ từng vang lên tạo một âm điệu ngọt ngào, bồi hồi, diễn tả một nỗi nhớ dào dạt, vơi đầy của tác giả khi nói tới cảnh và người Việt Bắc. Cảnh và người gắn bó thân thiết như khắc họa nỗi nhớ riêng biệt về một vùng rừng núi trong kháng chiến với bao nghĩa tình.

2. Khung cảnh Việt Bắc trong kháng chiến:

– Khái quát cảnh Việt Bắc trong những năm kháng chiến, bao trùm âm hưởng sử thi:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

Điệp từ “núi”, “rừng” kết hợp với thủ pháp nhân hóa “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” như đã tạo nên một bức tường thành vững chắc, sức mạnh đoàn kết giữa con người và thiên nhiên.

– Nỗi nhớ những địa danh cụ thể trong kháng chiến:

“Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao –  Lạng, nhớ sang Nhị – Hà…”

 Những địa danh như Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị – Hà,…  đều gắn với những chiến công lẫy lừng trong cuộc kháng chiến.

+ “Ai về ai có nhớ không?” – câu hỏi phiếm chỉ với đại từ ai, hình như không hỏi riêng một người nào mà là hỏi tất cả những người đã từng gắn bó với Việt Bắc. Một câu hỏi gợi nhiều lưu luyến bâng khuâng, đậm đà tình nghĩa.

+ Điệp từ “nhớ”: một từ nhớ để hỏi mà có đến năm từ nhớ hô ứng trả lời. Nỗi nhớ bao trùm tất cả, nhớ đèo, nhớ sông, nhớ phố, nhớ những trận đánh đẫm máu, nhớ những chiến công oai hùng của một thời oanh liệt.

Nhớ trận Phủ Thông, đèo Giàng, với những lưỡi mác và ngọn giáo búp đa, anh bộ đội Cụ Hồ trong tư thế dũng sĩ lẫm liệt đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn những năm đầu kháng chiến. Nhớ sông Lô là nhớ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947:

“Tàu giặc đắm sông Lô

Tha hồ mà uống nước

Máu tanh đến bây giờ

Chưa tan mùi bữa trước”

                                   (“Cá nước”)

Nhớ phố Ràng là nhớ trận công kiên chiến có pháo binh tham gia vào cuối năm 1949, đánh dấu bước trưởng thành trong kháng chiến của quân ta, để từ đó tiến lên đánh lớn và thắng lớn trong chiến dịch Biên giới giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn.

“Nhớ từ … nhớ sang” là nỗi nhớ dạt dào, mênh mông, nhớ tha thiết, bồi hồi.

→ Đoạn thơ như một nỗi nhớ bao trùm, trải rộng với những địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao Lạng, Nhị Hà,… như những trang kí sự chiến trường nối tiếp xuất hiện, để lại bao tự hào trong lòng người đọc về bước đi lên của lịch sử dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Có biết bao máu đổ xương rơi, bao chiến sĩ anh hùng ngã xuống mới có thể đưa ra những tên núi, tên sông, tên đèo vào lịch sử, thơ ca dân tộc.

– Tám câu thơ tiếp:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đên thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

+ Bài thơ tràn đầy âm  hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, bởi vì chỉ cần phác họa khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ, hào hùng của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Hai câu thơ gợi được không gian rộng lớn (“Những đường Việt Bắc”) và thời gian đằng đẵng (“Đêm đêm”)  của cuộc kháng chiến vĩ đại, trường kì. Khí thế xung trận được cảm nhận bằng âm thanh rầm rập – từ láy tượng thanh này không chỉ diễn tả được tiếng động mạnh của bước chân mà còn giúp người đọc hình dung được nhịp độ khẩn trương, gấp gáp của một số lượng người đông đảo cùng hành quân về một hướng, tất cả tạo thành một sức mạnh tổng hợp là rung chuyển cả mặt đất. Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh cường điệuĐêm đêm rầm rập như là đất rung để nêu bật sức mạnh đại đoàn kết của quân dân ta quyết tâm chiến đấu bảo về độc lập, tự do.

→ Qua không gian rộng lớn, thời gian đằng đẵng, khí thế hào hùng ở Việt Bắc có thể thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là trường kì, gian khổ nhưng dân tộc Việt Nam không nhụt chí, trái lại vẫn vững vàng, kiên cường, chung sức chung lòng đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi.

+ Hai câu tiếp theo miêu tả cụ thể hình ảnh bộ đội ta hành quân ra trận:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Đó là một hình ảnh vừa hào hùng vừa lãng mạn. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” khắc họa đoàn quân đông đảo bước đi mạnh mẽ như những đợt sóng dâng trào, đợt này nối tiếp đợt kia tưởng chừng kéo dài đến vô tận. Tuy trang bị vật chất còn thiếu thốn (chiến sĩ phải đội mũ nan đan bằng tre lợp vải) nhưng đoàn quân “điệp điệp trùng trùng” chính là hình ảnh tượng trưng cho sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta, của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến. Trong những đêm dài hành quân chiến đấu ấy, ở đầu mũi súng của người lính ngời sáng ánh sao, đó là ánh sao sáng hiện thực trong đêm tối hay là một hình ảnh ẩn dụ: ánh sao của lí tưởng chỉ đường dẫn lối cho người chiến sĩ đánh đuổi kẻ thù bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Hình ảnh ấy gợi liên tưởng tới hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Có điều nếu ánh trăng trong bài “Đồng chí” là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng hòa bình, cho vẻ đẹp yên ấm của quê hương, thì ánh sao ở bài thơ này lại là biểu tượng của lí tưởng, của niềm lạc quan chiến thắng trong tâm hồn người lính ra trận.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Top những cây vợt cầu lông Lining đáng mua nhất hiện nay 2022 | Mytranshop.com

+ Không chỉ có bộ đội ra trận mà nhân dân ta ở bất kì nơi đâu cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc kháng chiến. Trên núi rừng Việt Bắc đêm khuya, cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công phục vụ chiến đấu:             

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”

Những bó đuốc đỏ rực soi rọi đường đã làm sáng bừng lên hình ảnh những đoàn dân công tiếp lương tải đạn. Có thể hình dung ở đó đủ cả trẻ già trai gái, họ đến từ nhiều miền quê với đủ mọi phương tiện chuyên chở gồng gánh quyết tâm, kiên cường vượt núi cao đèo dốc đảm bảo sức mạnh vật chất cho bộ đội chiến đấu, chiến thắng. Thành ngữ có câu chân cứng đá mềm, Tố Hữu chuyển thành “Bước chân nát đá” – hình ảnh cường điệu ấy khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn của nhân dân kháng chiến. Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, là cuộc chiến tranh toàn nhân dân, nó phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa, vì thế ta nhất định thắng.

+ Hai câu thơ tiếp theo khẳng định niềm lạc quan tin tưởng vững chắc Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi (câu thơ của Bác trong bài Mừng xuân 1947):

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

Ánh đèn pha của ô tô kéo pháo xuyên thủng màn đêm dày đặc nhưng hình ảnh đó cong mang ý nghĩa biểu tượng: ánh sáng ấy sẽ xuyên thủng đêm đen để hướng tới tương lai tươi sáng hơn. Như vậy, đây cũng là một dấu hiệu nữa về sự trưởng thành của quân đội ta, sự trưởng thành ấy là một nhân tố quan trọng quyết định sự thắng lợi. Đáng chú ý là hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách độ hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp. Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.

→ Tóm lại, đoạn thơ trên vừa đậm chất sử thi hào hùng vừa giàu tính lãng mạn tượng trưng đã diễn tả thành công khí thế kháng chiến ở Việt Bắc. Qua đó, Tố Hữu khắc họa sâu sắc hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, đầy gian khổ hi sinh nhưng nhất định thắng lợi. Vì vậy, dân tộc ấy đã vượt qua biết bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công: Phủ Thông, đèo Giang, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên,…

– Bốn câu tiếp:

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Bốn câu thơ trên diễn tả niềm vui chiến thắng giòn giã, dồn dập gắn với những địa danh nổi tiếng với những chiến công lấy lừng và thể hiện được tâm trạng náo nức của nhà thơ khi nói về những chiến công oanh liệt. Những từ như vui, vui về, vui từ, vui lên diễn tả niềm vui ngập tràn trong nhà thơ.

3. Niềm hi vọng về tương lai của tác giả:

Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.

4. Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm –  bài thơ đậm đà tính dân tộc:

– Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc của dân tộc đã được sử dụng thành công kết hợp vơi kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao, dân ca truyền thống được dùng một cách sáng tạo để diễn tả nội dung tình cảm phong phú về quê hương, con người, Tổ quốc và Cách mạng.

– Cặp đại từ nhân xưng mình – ta với sự biến hóa linh hoạt và những sắc thái ngữ nghĩa, biểu cảm phong phú vốn có của nó được khai thác rất hiệu quả. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến.

– Những biện pháp tu từ ( nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng,… ) quen thuộc với cách cảm, cách nghĩ của quần chúng được dùng nhuần nhuyễn.

– Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng có những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thơ uyển chuyển, cân xứng, hài hòa, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư:

“Mình về rừng núi nhớ ai”

“Trám bùi để rụng / mang mai để già”

– Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa.

+ Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh, cụ thể:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

“Nắng trưa rực sáng sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công”

+ Đó cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

– Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian:

“Mình về, mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

“Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

→ Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thủy chung.

III. TỔNG KẾT

1. Nội dung

Bài thơ ca ngợi con người và cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc trong thời kì cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng. Bài thơ còn thể hiện tình nghĩa thủy chung giữa người cách mạng và người dân Việt Bắc, là khúc hát tâm tình chung của những con người trong kháng chiến. Đồng thời, bài thơ còn là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc tươi sáng, là bản hùng ca về chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn thể nhân dân ta.

2. Nghệ thuật

“Việt Bắc” cũng rất tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào, thiết tha của Tố Hữu và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của ông, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao kết hợp với những biện pháp tu từ và ngôn ngữ mang đậm khuynh hướng sử thi và sắc thái dân gian.

Leave a Comment