Chí Phèo – Nam Cao, trắc nghiệm ngữ văn lớp 11 2022 | Mytranshop.com

Phần 1: Tác Gia Nam Cao

I. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ VÀ CON NGƯỜI

– Tên thật Trần Hữu Tri: (1915 – 1951)

– Quê làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Quê hương nghèo đói, đồng nhiều chiêm chũng, người dân phải tha phương cầu thực khắp nơi

– Xuất thân trong một gia đình nghèo khó, cuộc sống hiện thực tàn nhẫn, là người con duy nhất trong gia đình được ăn học tử tế.

– Bản thân là một trí thức nghèo, luôn túng thiếu.

* Trước cách mạng:

– Học hết bậc thành chung, đi làm ở nhiều nơi: Sài Gòn, Hà Nội. Cuối cùng thất nghiệp, sống bằng nghề viết văn và làm gia sư.

– 1943 tham gia Hội Văn hóa cứu quốc.

* Sau cách mạng tháng Tám: Vừa viết văn vừa tham gia cách mạng.

– 1946: tham gia đoàn quân Nam tiến.

– 1950: tham gia chiến dịch Biên Giới.

– 1951: hi sinh trên con đường đi công tác.

II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

1. Quan điểm nghệ thuật

a. Trước cách mạng tháng Tám

– Nghệ thuật phải bám sát vào cuộc đời, gắn bó với đời sống nhân dân lao động.

– Nhà văn phải có đôi mắt của tình thương, tác phẩm văn chương hay, có giá trị phải chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc.

– Văn chương nghệ thuật là lĩnh vực đòi hỏi phải khám phá, tìm tòi, sáng tạo.

– Lao động nghệ thuật là một hoạt động nghiêm túc, công phu; người cầm bút phải có lương tâm.

b. Sau cách mạng

Ông nêu cao lập trường, quan điểm của nhà văn: Nhà văn phải có con mắt nhìn đời, nhìn người – đặc biệt là người nông dân kháng chiến – một cách đúng đắn.

→ Nam Cao xứng đáng là một nhà văn hiện thực sâu sắc, có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, mới mẻ so với nhiều nhà văn đương thời.

2. Các đề tài chính

a. Trước cách mạng

-Trước cách mạng tập trung hai đề tài chính

Người tri thức nghèo: Nhà văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của những người tri thức nghèo trong xã hội cũ.

– Những tác phẩm tiêu biểu: Sống mòn, Đời thừa, Những chuyện không muốn viết, Giăng sáng, Quên điều độ, Nước mắt… 

– Nội dung: 

+ Tấn bi kịch tinh thần của những người tri thức tài năng, có hoài bão và nhân phẩm, nhưng lại bị gánh nặng của cơm áo, gạo tiền đè bẹp, phải sống mòn như một kẻ vô ích, một đời thừa…

+ Cuộc đấu tranh kiên trì của những người tri thức nghèo trước sự cám dỗ của lối sống ích kỉ, để thực hiện lí tưởng sống, vươn tới một cuộc sống cao đẹp.

+ Diễn tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống, dở chết của những nhà văn nghèo. Ông đi sâu vào những bi kịch tâm hồn họ để từ đó tố cáo xã hội chà đạp lên ước mơ con người:

– Giá trị: phê phán xã hội phi nhân đạo đã tàn phá tâm hồn con người. Qua đó nhà văn thể hiện niềm khao khát cuộc sống có ích, thật sự có ý nghĩa.

* Người nông dân nghèo:

– Những tác phẩm tiêu biểu: Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lang rận, Lão Hạc, Dì Hảo, Nửa đêm, Mua danh, Trẻ con không biết ăn thịt chó …

– Nội dung.

+ Bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám: Nghèo đói, xơ xác, bần cùng.

+ Kết án đang thép xã hội bất công tàn bạo đã khiến cho một bộ phận nông dân nghèo đói bần cùng, lưu manh hóa. Quan tâm đến số phận hẩm hiu, bị ức hiếp, bị xô đẩy vào con đường cùng của tội lỗi. Ông lên tiếng bênh vực quyền sống, và nhân phẩm của họ (Chí Phèo, Lang rận, Lão Hạc, Dì Hảo…)

+ Chỉ ra những thói hư tật xấu của người nông dân, một phần do môi trường sống, một phần do chính họ gây ra (Trẻ con không biết ăn thịt chó, Rửa hờn…)

+ Phát hiện và khẳng định được nhân phẩm và bản chất lương thiện của người nông dân, cho dù bị xã hội vùi dập, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. (Chí Phèo)

→ Dù ở đề tài nào ông luôn day dứt đớn đau trước tình trạng con người bị bị xói mòn về nhân phẩm, bị huỷ diệt về nhân tính.

b. Sau cách mạng

– Sau cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp. (Nhật kí ở rừng, Đôi mắt, tâp kí sự Chuyện biên giới…).

– Ông tham gia kháng chiến, tự nguyện làm anh tuyên truyền vô danh cho cách mạng. Các tác phẩm của ông thể hiện tình yêu nước và cách nhìn cuộc sống của giới văn nghệ sĩ với nhân dân và cuộc kháng chiến của dân tộc. Tác phẩm của ông luôn luôn là kim chỉ nam cho các văn nghệ sỹ cùng thời. 

3. Phong cách nghệ thuật

Là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo:

+ Đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người.

+ Biệt tài phát hiện, miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật.

+ Rất thành công trong ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm.

+ Kết cấu truyện thường theo mạch tâm lí linh hoạt, nhất quán và chặt chẽ.

+ Cốt truyện đơn giản, đời thường nhưng lại đặt ra vấn đề quan trọng sâu xa, có ý nghĩa triết lí về cuộc sống và con người xã hội. 

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Sự phát sinh loài người, trắc nghiệm sinh học lớp 12 2022 | Mytranshop.com

→ Ngòi bút của ông lạnh lùng, tỉnh táo, nặng trĩu ưu tư và đằm thắm yêu thương. Nam Cao được đánh giá là nhà văn hàng đầu trong nền Văn học Việt Nam thế kỷ XX.

III. TỔNG KẾT

(Ghi nhớ SGK) 

 

Phần 2 Tác phẩm

I. TÌM HIỂU CHUNG

– Truyện ngắn Chí Phèo nguyên có tên là Cái lào gạch cũ ;khi in sách lần đầu nhà xuất bản tự ý đặt tên là  Đôi lứa xứng đôi.Đến khi in lại trong tập Luống cày ,tác giả đặt lại tên là Chí Phèo

– Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi hiện đại Việt Nam,một truyện ngắn có giá trị hiện thực và có giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ.

II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1. Hình ảnh làng Vũ Đại – hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng 8/1945.

– Làng Vũ Đại- đó là không gian nghệ thuật của truyện, nơi các nhân vật sống và hoạt động.

– Làng dân “không quá hai nghìn, xa phủ, xa tỉnh.”

– Nơi mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt, âm thầm mà quyết liệt, giữa nông dân và địa chủ, người nông dân phải è cổ nuôi bọn địa chủ, phong kiến, sợ hãi, lánh mặt bọn cùng đinh…

→ Làng Vũ Đại sống động, tăm tối, ngột ngạt, khép kín. Đây chính là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn VN trước CM.

2. Hình tượng nhân vật Chí Phèo

a. Hoàn cảnh xuất hiện: Cách mở truyện độc đáo

– Vào truyện trực tiếp → tạo được ấn tượng về nhân vật chính : 1 kẻ say rượu, có cách chửi lạ lùng khiến người đọc phải băn khoăn : vì sao có một kẻ tha hóa đến như vậy ? → Chí Phèo hiện ra vừa cụ thể vừa sinh động.

– Chi tiết tiếng chửi : chửi trời → chửi đời → chửi cả làng Vũ Đại → chửi đứa nào không chửi nhau với hắn → chửi đứa nào đẻ ra hắn.

→ tất cả mọi người không ai lên tiếng : “ chắc nó chừa mình ra”.

→ Ý nghĩa :

– Chi tiết tiếng chửi gây ấn tượng sâu sắc về số phận Chí Phèo : cô độc, đáng thương, nhỏ bé giữa cuộc đời, giữa làng quê lam lũ.

– Tiếng chửi thể hiện tâm trạng bi phẫn cùng cực của CP với cái xã hội đã sinh ra kiếp sống bi kịch của hắn.

– Đắng sau những tiếng chửi vả là sự vật vã, tuyệt vọng của một tâm hồn khổ đau, khao khát giao tiếp với con người. Đó có thể là tiếng kêu của con người cô độc nhất thế gian, đang sống nhưng bị chính đồng loại của mình xa lánh, từ chối, xua đuổi.

b. Trước khi vào tù

– Chí Phèo là một con người bất hạnh: bị bỏ rơi, không rõ cha mẹ, không biết quê hương, được người ta nhặt về từ chiếc lò gạch cũ, người làng chuyền tay nhau nuôi.

– Là một con người lương thiện:

+ Sống bằng sức lao động từ nhỏ (làm canh điền cho nhà bá Kiến)

+ Có mơ ước, suy nghĩ bình dị về mái ấm gia đình

+ Bị vợ ba bá Kiến sai làm việc xấu xa, Chí Phèo cảm thấy rất xấu hổ, nhục nhã → Một con người đầy ý thức về danh dự

→ Chí Phèo là một con người hiền lành, có quyền sống một cuộc sống đời thường, bình dị như những người lao động khác 

c. Sau khi ra tù

– Nhân hình của Chí Phèo dị dạng: giống đặc thằng “săng đá”, “phanh ngực xăm trổ”, “con mắt gườm gườm”, “mặt đen cơng cơng”, “đầu trọc lốc”,..

– Hành động cũng khác xưa: uống rượu say khướt, không trả tiền còn định đốt quán rồi xách vỏ chai đến nhà bá Kiến gây sự, đập đầu, rạch mặt ăn vạ, điệu bộ hung hăng,..

→ Chí Phèo trở thành một kẻ lưu manh, thành tay sai của bá Kiến, tàn phá bao nhiêu hạnh phúc của những người lương thiện. Hắn đã trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Cùng với sự tha hóa về nhân hình, nhân tính, Chí Phèo còn rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Lời của bà cô Thị Nở là định kiến của xã hội lương thiện không chấp nhận những người như Chí Phèo. Cuộc sống của Chí Phèo là cuộc sống thú vật, tăm tối.

→ Nam Cao tố cáo xã hội lúc đó: tàn phá thể xác, hủy hoại tâm hồn người lương thiện: từ một người lao động hiền lành bị đẩy tới bần cùng rồi dần dần bị lưu manh hóa, và bị cự tuyệt quyền được làm người

* Bát cháo hành của Thị Nở: Đây vừa là hình ảnh chân thực, vừa là hình ảnh mang nhiều lớp nghĩa.

– Với Thị Nở, đây là bát cháo của tình thương, Thị tự nguyện mang cho Chí Phèo với tình yêu thương mộc mạc của mình

– Với Chí Phèo, đó không phải là bát cháo bình thường:

+ Đây là lần đầu tiên hắn được người đàn bà cho một cách chân thành, tự nguyện, thương cảm. Bát cháo hành của Thị Nở là bát cháo hành của tình thương, còn hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí Phèo có được. (Vì vậy, hắn “bang khuâng”, “mắt ươn ướt, vừa vui vừa buồn” ) → Bát cháo hành thắp sáng lên tình yêu thương, hạnh phúc lứa đôi đầu tiên trong cuộc đời Chí Phèo.

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Hướng dẫn chăm sóc da bằng bột yến mạch 2022 | Mytranshop.com

– Bát cháo ấy cũng hồi sinh trong Chí Phèo bản chất hiền lành, lương thiện vốn có đầy mãnh liệt:

+ Ngạc nhiên rồi xúc động: “Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ”, “Hắn hiền,… hắn them lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”

→ Từ sau trận ốm, được đón nhận tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở, Chí Phèo thực sự đã hồi sinh, trở thành anh canh điền xưa kia: hiền lành, lương thiện. Bản tính ấy trong con người Chí Phèo bị mất đi, nay mới có cơ hội thể hiện. Xã hội tàn ác (đại diện là Bá Kiến và nhà tù thực dân) ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm tồn tại trong tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi Chí Phèo tưởng chừng như trở thành quỷ dữ.

Chí Phèo khát khao được sống lương thiện, muốn làm hòa với mọi người, mong muốn được sống trong xã hội lương thiện và nuôi hi vọng  “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được..” → Khát khao ấy của Chí Phèo thực đáng trân trọng

→ Hình ảnh bát cháo hành không chỉ thể hiện tính nhân đạo, lòng yêu thương, sự tin tưởng của nhà văn vào nhân vật của mình – nhân vật đại diện cho những người nông dân vốn hiền lành mà còn mặt khác thể hiện sự tinh tế, khẳng định tài năng của nhà văn trong miêu tả, xây dựng thế giới nội tâm của nhân vật.

→ Tình yêu, sự quan tâm chăm chút của thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo, làm bùng lên đốm sáng lương tri còn sót lại trong Chí. Chí Phèo khát vọng được quay trở về với cuộc sống lương thiện, được hoà mình trong xã hội loài người mà thị Nở sẽ là cây cầu nối

* Khi bị Thị Nở cự tuyệt:

– Đầu tiên trong Chí Phèo là cảm giác ngạc nhiên, thích chí trước sự giận dữ của Thị Nở, đến khi hiểu rõ sự thật, Chí “ngẩn người”, rồi “sửng sốt”. Chí Phèo “đuổi theo nắm tay” Thị Nở… rồi hắn “ôm mặt khóc rưng rức”

→ Cảm giác đau xót, cố níu kéo của Chí Phèo không chỉ là níu kéo tình yêu với Thị Nở mà với niềm khát khao được đến với cuộc đời lương thiện của những người sống lương thiện. Bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng (Chi tiết “hơi cháo hành” được nhắc đi nhắc lại thể hiện niềm khát khao tình yêu của Chí): Chí Phèo lại rơi vào bi kịch tinh thần của con người sinh ra là người nhưng lại không được làm người. (“khóc rưng rức”: khóc nhiều, khóc trong cay đắng tủi nhục)

→ Tiều kết:

(1) Tâm trạng của Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở theo mạch: Thức tỉnh → Hy vọng → Đau đớn → Tuyệt vọng

(2) Thị Nở đã giúp Chí Phèo phát hiện lại chính mình nhưng Thị Nở cũng là nỗi đau sâu thẳm của Chí Phèo. Nghèo, xấu, dở hơi, thua thiệt đến thảm hại thế mà Chí vẫn không xứng đôi với Thị. Chính điều này tô đậm thêm cái bi đát, hẩm hiu trong số phận nhân vật

(3) Nam Cao đã thể hiện cái nhìn nhân đạo bằng cách đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân ngay cả khi họ bị xã hội tàn ác cướp mất cả hình người, tính người

* Hành động giết bá Kiến:

Nam Cao đã dẫn dắt tình tiết này: “Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”.

– Chí Phèo đến nhà bá Kiến trong tâm trạng tuyệt vọng của một con người đã thức tỉnh, đau xót, phẫn uất.

– Lúc Chí Phèo đi, qua cách miêu tả của Nam Cao, Chí đã rơi vào “trạng thái say mềm” nhưng dường như không hoàn toàn như vậy(tác giả cố ý đánh lừa người đọc). Chí Phèo say nhưng vẫn có phần tỉnh trong ý thức của mình:

+ Hiểu rõ nguyên nhân mình không thể lương thiện

+ Hiểu con đường cùng của mình

“Tao muốn làm người lương thiện”… “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách.. biết không! Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!…”

→ Hình ảnh “hơi cháo hành” cứ trở đi trở lại trong tiềm thức của Chí. Lúc tuyệt vọng nhất, “hơi cháo hành” lại hiện ra đẩy sâu Chí vào tuyệt vọng. Chính bát cháo hành của Thị Nở đã thức tỉnh Chí, giờ đây, chính “hơi cháo hành” là nơi níu giữ cuối cùng của Chí với cuộc đời này.

Trong tiềm thức sâu xa, có lẽ Chí vẫn luôn khắc ghi: Bá Kiến là kẻ thù của đời mình. Vì thế, Chí Phèo không đến nhà Thị Nở mà đến nhà bá Kiến (Đây là lần thứ 3).

→ Đây là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân bị áp bức. Một mặt, nó phản ánh mâu thuẫn gay gắt không thể dung hòa giữa nông dân và địa chủ, mâu thuẫn ấy chỉ giải quyết được bằng máu. (Đây là hành động rất “Người” của Chí, nhưng cả làng Vũ Đại không ai hiểu được phần hồn lương thiện của Chí Phèo đã trở về). Mặt khác cũng phản ánh cảm quan hiện thực của Nam Cao

Mytranshop.com khuyên bạn nên xem:  Bí Quyết Chăm Sóc Da Bằng Mật Ong Ngay Tại Nhà 2022 | Mytranshop.com

* Hành động tự kết liễu của Chí Phèo:

– Đó là cái chết thê thảm, thể hiện sự ăn năn, hối hận, Chí Phèo ý thức rõ tội ác mà mình gây ra. Nợ máu phải trả bằng máu. Chí không muốn sống cũng vì khi linh hồn trở về, Chí Phèo không thể cam chịu kiếp sống thú vật. Cái chết của Chí chứng tỏ khát khao trở về với cuộc sống lương thiện, với xã hội những người lương thiện còn cao hơn cả tính mạng. Cái chết của Chí là một minh chứng cho sức mạnh dù là tự phát, liều lĩnh của người nông dân bị đẩy vào đường cùng vẫn lớn lao như thế nào. Cái chết của Chí Phèo tố cáo cả một xã hội thực dân nửa phong kiến không chỉ đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy tới tận cùng, không cho người nông dân quay lại xã hội ấy nữa.

– Cái chết cũng thể hiện lòng tin của tác giả vào bản chất lương thiện của người nông dân lao động sẽ mãi mãi không bao giờ mất đi.

→ Hai cái chết thể hiện mâu thuẫn đối kháng gay gắt trong xã hội có giai cấp. Đó là mâu thuẫn giữa người nông dân với giai cấp phong kiến mà đại diện là bọn địa chủ, cường hào, ác bá ở nông thôn.

→ Chí Phèo chết ngay trước ngưỡng cửa bước vào cuộc sống lương thiện. Đó là bi kịch của Chí Phèo cũng là bi kịch của của những người nông dân bị bần cùng, bị lưu manh hoá. Quá thực, Chí Phèo không có lối trở về. Đứng trước hai con đường, Chí Phèo chỉ được chọn một mà thôi.

– Thứ nhất, Chí Phèo tiếp tục trở về sống cuộc sống của một “con quỷ dữ’.

– Hai là, Chí Phèo chết để giữ lại phần hiền lương còn sót trong tâm hồn.

Chí Phèo đã chọn con đường thứ hai. Chí Phèo đã chết vì ý thức về nhân phẩm đã trở về trong anh. Anh không thể chấp nhận cuộc sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn vì khát khao được làm người lương thiện đã bị từ chối một cách lạnh lùng. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo vừa đanh thép vừa chất chứa phẫn nộ: “Ai cho tao lương thiện?”. Phải chăng câu nói ấy đã được đặt ra một cách bức thiết khi tác phẩm ra đời. Làm thế nào, bằng con đường nào để người nông dân không rơi vào tấn bi kịch như Chí Phèo.

* Hiện tượng Chí Phèo chưa chấm dứt: Cái lò gạch cũ bỏ không hiện lên trong tâm trí Thị Nở phản ánh quy luật tàn bạo ấy của xã hội thực dân nửa phong kiến: Chừng nào còn giai cấp thống trị tàn bạo, người nông dân còn bị bần cùng hóa dẫn tới lưu manh hóa và mất đi cả nhân hình và nhân tính.

3. Các nhân vật Bá Kiến, Thị Nở đều có ý nghĩa đặc biệt đối với số phận và tính cách của Chí Phèo.

– Mối quan hệ Chí Phèo – Bá Kiến thể hiện quá trình bị tha hóa của Chí Phèo. Từ anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù và khi trở về thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

– Mối quan hệ Chí Phèo – Thị Nở thể hiện quá trình hoàn lương của Chí. Sự chăm sóc của Thị Nở đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong Chí. Nó cũng chứng minh rằng những bản chất tốt đẹp của người lao động trong con người Chí không thể bị hủy diệt mà nó chỉ bị khuất lấp đi đằng sau cái vẻ bất cần đời của một con người bị xã hội dồn vào bước đường cùng mà thôi. Sau khi bị Thị Nở tù chối, Chí thà chết chứ không chịu quay lại cuộc sống của một kẻ lưu manh.

III. TỔNG KẾT

1. Nội dung

– Chí Phèo, một kiệt tác của nền văn xuôi hiện đại.Qua truyện ngắn này, Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.

– Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thân xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khảng định bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình và nhân tính.

– Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

2. Nghệ thuật

– Chí Phèo thể hiện tài năng viết truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao; xây dựng thành công nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán, chặt chẽ; ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc.

Leave a Comment