I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
– Kim Lân (1920 – 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.
– Quê: Phù Lưu – Tân Hồng – Từ Sơn – Bắc Ninh.
– Gia đình: nghèo khó.
– Kim Lân tham gia cách mạng.
– Sự nghiệp sáng tác:
• Tác phẩm tiêu biểu: “Nên vợ nên chồng”, “Con chó xấu xí”, “Làng” ….
• Kim Lân là cây bút có sở trường về truyện ngắn.
• Thế giới nghệ thuật của ông thường là khung cảnh nông thôn và nông dân.
• Năm 2001 ông được tặng giải thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật .
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
– “Vợ nhặt” viết năm 1955 in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau cuộc cách mạng tháng Tám thành công nhưng vẫn còn dang dở thì bị mất bản thảo. Sau này khi hòa bình lập lại tác giả dựa vào cốt truyện này để viết truyện ngắn mang tên “Vợ Nhặt”.
b. Bố cục: 4 phần:
– Phần 1: từ đầu đến “tự đắc với mình”: Tràng đưa vợ về nhà.
– Phần 2: tiếp đên “đẩy xe bò về”: kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.
– Phần 3: tiếp đến “nước mắt chảy ròng ròng”: tình thương của người mẹ nghèo khó.
– Phần 4: còn lại: niềm tin vào tương lai tươi sáng
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Nhan đề và tình huống truyện
a. Nhan đề
– Hai chữ “Vợ nhặt” nằm trong sự kết hợp lạ lùng giữa bi và hài, gợi ra trò đùa tai ác của số phận, nó báo hiệu sự pha trộn éo le, nghịch lí giữa một bên là cái vốn biểu tượng cho khát khao hạnh phúc của con người – vợ, với một bên là cái biểu tượng cho sự tầm thường, rẻ rúng – nhặt. Người vợ gắn với tổ ấm, gắn với gia đình mà có thể nhặt được như cái rơm cái rác ven đường, như một thứ chẳng có giá trị gì người ta bỏ rơi bên đường.
– Gia đình Tràng kể từ khi có người vợ nhhặt lại trở nên gắn bó và thu vén hơn cho tổ ấm của mình → nó thể hiện sự khát khao hạnh phúc gia đình đời thường.
→ Tóm lại nhan đề gợi lên cho thấy được tình trạng thân phận con người Việt Nam trước cách mạng tháng Tám rẻ rúng như cọng rơm cọng rác ngoài đường có thể đem về lúc nào cũng được. Đồng thời qua đó thể hiện niềm ước mơ khát vọng có cuộc sống gia đình bình thường mà hạnh phúc
b. Tình huống truyện
* Tình huống truyện là một sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm. Tại sự kiện ấy, nhà văn làm sống dậy một tình thế bất thường, có tính chất éo le và gây bất ngờ trong các quan hệ giữa các nhân vật. Tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng mà nhà văn định gửi gắm cũng hiện hình khá trọn vẹn. Đối với nghệ thuật truyện ngắn, việc tạo ra một tình huống mới lạ, hấp dẫn, có giá trị đặc biệt góp phần khẳng định thành công, giá trị của tác phẩm. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo ra được một tình huống truyện vừa lạ lùng, vừa éo le lại cảm động. Đó là tình huống Tràng nhặt được vợ trong những ngày đói khủng khiếp, sự sống đặt bên bờ vực của cái chết. Một lần xe thóc của liên đoàn lên tỉnh, Tràng hò một câu vượt dốc cho đỡ mệt nhưng đã có một người đàn bà ra đẩy xe cho Tràng. Anh đã gặp lại người đà bà ấy trong một lần trả hàng xong, chị ấy đã gợi ý để được ăn, Tràng mời người đó ăn và chỉ qua một câu nói đàu mà chị ấy theo anh về làm vợ.`
* Tình huống truyện trong Vợ nhặt là tình huống lạ lùng.
– Tình huống lạ lùng:
+ Trong hoàn cảnh cái đói, cái chết đang bao bọc, bủa vây, nhu cầu lớn nhất của con người là kiếm được cái miếng ăn để đảm bảo sự sống, để được tồn tại. Trong hoàn cảnh đó, nhu cầu về hạnh phúc gia đình gần như bị bỏ quên, nó khó có thể tồn tại được. Vậy mà anh Tràng lại lấy vợ, xây dựng hạnh phúc gia đình ngay trong bối cảnh tăm tối và đói khát đó.
+ Một người như Tràng – hội tụ rất nhiều yếu tố để anh ế vợ mà bỗng nhiên có vợ một cách dễ dàng. Anh xấu trai, cuộc sống nghèo khổ, bấp bênh… thế mà có vợ theo không.
– Ý nghĩa, tác dụng của cái lạ lùng: tạo ra tâm trạng ngạc nhiên cho tất cả mọi người trong xóm ngụ cư và gia đình:
+ Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy Tràng đưa người đàn bà lạ về. Họ đứng cả trong cửa bàn tán, hồ nghi vì chưa rõ, nhưng qua dáng vẻ thèn thẹn “hay đáo để” của người đàn bà thì họ hiểu ra nhưng vẫn rất ngạc nhiên. Vì giữa lúc đới kém “không biết có nuôi nổi thân không” mà còn “rước cái của nợ đời về”. Họ phỏng đoán, họ lo lắng và vui mừng cho Tràng.
+ Bà cụ Tứ – mẹ Tràng ngạc nhiên vì con bà có vợ ngoài dự đoán của người mẹ nghèo, trong hoàn cảnh tăm tối này.
+ Ngay chính Tràng – người trong cuộc cũng ngạc nhiên, khi vợ anh ngồi trong nhà rồi, anh vẫn còn ngỡ ngàng “ra hắn đã có vợ rồi đấy ư” và đến sáng hôm sau thức dậy rồi, anh ấy còn chưa tin mình có vợ -“trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong một giấc mơ đi ra” – Anh Tràng ngạc nhiên trước hạnh phúc quá bất ngờ với anh.
* Tình huống trong Vợ nhặt là một tình huống rất éo le, bất thường.
– Lấy vợ vốn là niềm vui, niềm hạnh phúc song hạnh phúc bình dị ấy lại diễn ra trong bối cảnh đói khát hiện tại: Tràng đưa người vợ nhặt về giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói, nắng thì đã tắt, chiều đã chạng vạng mặt người.
+ Con đường dẫn dâu về nhà phải đi qua xóm chợ chứa chất đầy sự bi thảm, chết chóc: người chết như ngả rạ, người sống thì xanh xám, hoặc nằm ngổn ngang, hoặc đi lại dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma; đám trẻ con thường ngày vô tư hồn nhiên là thế mà nay cũng không buồn nhúc nhích, ngồi ủ rũ dưới những góc tường; không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người; tiếng quạ ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Đêm đầu tiên của cuộc sống vợ chồng Tràng cũng không được yên bình, bởi xen vào đó là tiếng hờ khóc tỉ tê não nùng, xót xa…
+ Cảnh sống của gia đình Tràng cũng hết sức thê thảm. Một ngôi nhà vắng teo, xiêu vẹo, đứng rúm ró trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, giữa nạn đói kinh hoàng. Bữa ăn đầu tiên của gia đình đón nàng dâu mới thật thảm hại, chứa chất bao nỗi tủi hờn: niêu cháo loãng lõng bõng cũng không đủ ăn, họ ăn những miếng cháo cám đắng chát, nghẹn bứ trong cổ họng.
→ Đặt bên cạnh những ám ảnh chết chóc đó, hạnh phúc của Tràng cũng trở nên rất mong manh.
– Lấy vợ là tạo lập một gia đình, là xây dựng nền móng cho tương lai song nó lại diễn ra khi sự sống đang tắt dần và tương lai thì mờ mịt – “năm nay thì đói to đấy”.
– Lấy vợ là việc trọng đại và thiêng liêng của đời người song trong cảnh đói khát, nó diễn ra rất nhếch nhác, thảm hại:
+ Cả hai người đều là xa lạ, chưa có hiểu biết gì về nhau, họ cũng không có dự định trở thành vợ chồng, chỉ qua một câu nói đùa của Tràng mà sự đùa đã trở thành sự thật; thách cưới là bốn bát bánh đúc ăn vội.
+ Cô dâu về nhà chồng trong bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, cái nón rách tàng rất tội nghiệp và sính lễ là một cái thúng con đựng ít đò lặt vặt do Tràng vừa mua cho chứ cũng không là của hồi môn mà bố mẹ cho con gái khi về nhà chồng.
+ Con đường dẫn dâu gầy gò, khẳng khiu , xơ xác như cũng mang trong mình nỗi đói khát ghê gớm của nơi này; nó lại rất vắng vẻ không có người qua lại, không có làng trên xóm dưới hay quan viên 2 họ mà chỉ có anh nhặt vợ và chị vợ nhặt.
+ Hơn nữa, tất cả những nghi thức thiêng liêng theo truyền thống, theo tục lệ cũng đã bị bỏ qua.
→ Nhà văn Kim Lân “đã chọn cái giây phút rùng mình của lịch sử trong nạn đói 1945 để gợi lên trong ta những cảm thương xa xót”.
→ Ý nghĩa: tạo ra nét tâm lí rất phức tạp cho mọi người cả trong cuộc và ngoài cuộc.
– Tất cả mọi người đều có chung tâm trạng lo lắng:
+ Bản thân Tràng cũng cảm thấy “chợn”, lo lắng vì không biết có nuôi nổi thân không lại còn đưa thêm miệng ăn về nhà.
+ Người trong xóm ngụ cư cũng xót xa cho Tràng;
+ Bà cụ Tứ – mẹ Tràng lo lắng không biết các con bà có qua nổi thì đói kém này không, lo cho tương lai của chúng.
+ Người vợ nhặt cũng không biết phía trước cuộc sống sẽ thế nào nên cũng ưu tư, phấp phỏng, nét mặt cũng tự nhiên mà bần thần, không nói năng gì, chỉ ngồi mớm ở mép giường, tay ôm khư khư cái thúng.
→ Những lo lắng tạo cho truyện một không khí đầy dồn nén và tạo cho hình tượng nhân vật một chiều sâu tâm lí đầy sức thuyết phục.
– Cảm giác buồn tủi, xót xa, cay đắng là cảm giác nổi bật của những người trong cuộc, đặc biệt là người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
+ Khi theo Tràng về đến nhà, gia cảnh của Tràng hiện ra trước mắt, một ngôi nhà đứng rúm ró trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại – ngôi nhà đứng trong nạn đói nên cũng hoang dại và thiếu vắng dấu ấn của sự sống, người đàn bà đã nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, có lẽ chị ấy cũng có phần thất vọng về gia đình nhà Tràng – một người đã rất hào hiệp khi mời chị ăn, rất hoang phí khi trong buổi đói khát mà dám bỏ tiền ra mua dầu về thắp buổi tối mà lại sống trong một căn nhà xiêu vẹo thiếu sức sống thế kia; khi đón nhận bát cháo cám từ tay người mẹ chồng, đôi mắt của chị tối lại. Tất cả những điều đó chị không được biết từ trước;
+ Còn bà cụ Tứ, chuyện con trai có vợ, bà nghĩ đến cả cuộc đời đầy tủi cực, chồng chất đắng cay của bà, bà tủi cho thân bà không lo được vợ cho trai bà. Bà đã chu đáo chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà trong ngày đầu tiên có nàng dâu mới, ngoài nồi cháo loãng, bà còn chuẩn bị nồi “chè khoán”, tưởng đâu làm cho mọi người no bụng hơn, ai ngờ lại đem vào bữa ăn đó sự đáng chát và nỗi tủi thẹn để từ đó mọi người cúi mặt ăn cho xong lần, ai nấy đều tránh nhìn nhau…
* Tình huống truyện trong Vợ nhặt cũng đầy cảm động.
– Trong những ngày đói quay đói quắt, Tràng cưu mang một người khác, dù không có điều kiện để thực hiện những nghi lễ theo phong tục nhưng việc Tràng mua cho chị một cái thúng con, ăn no nê, dám bỏ tiền ra mua hai hào dầu để thắp tối “tân hôn” có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng: để cho quan hệ giữa hai người không còn ngượng nghịu và dung tục. Điều này còn thể hiện sự trân trọng của Tràng với người vợ – dù là người vợ nhặt, để cho cô ấy bớt đi phần nào sự tủi thân trong ngày trọng đại nhất của đời mình và anh cũng nâng niu niềm hạnh phúc bất ngờ của anh.
+ Cũng thật cảm động khi anh chủ động giới thiệu người vợ nhặt của mình với mẹ để tránh cho người vợ sự ngượng nghịu với mặc cảm theo không người đàn ông xa lạ.
+ Cảm động nhất là không khí đầy tình người, tình thân trong gia đình Tràng. Bà cụ Tứ chấp nhận con dâu bằng tất cả tình yêu thương, sự đùm bọc, chở che, lòng nhân hậu. Bà nói chuyện với con dâu như bày tỏ niềm tâm sự, là lời khuyên sâu sắc của người mẹ nghèo từng trải.
+ Cảnh mọi người trong gia đình cùng chung tay dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ, cho mới mẻ: đống rác ngay giữa lối đi đã được hót, đống quần áo cũ được đem ra phơi, những búi cỏ dại lổn nhổn đã được rẫy đi, những cái ang đã đổ đầy nước – dấu ấn sự sống đã trở về trong ngôi nhà quen thuộc của Tràng, ngôi nhà trước đó vẫn đứng trơ vơ, xiêu vẹo, điêu tàn giữa ngày đói; mọi người có chung suy nghĩ: dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ thì cuộc đời có cơ sáng sủa hơn.
+ Trong bữa cơm, mọi người trò chuyện với nhau trong không khí thân tình – thật giản dị mà ấm áp, thiêng liêng; người mẹ bàn bạc về kế hoạch tương lai cho con cái – một tương lai có thể bước tới được, vì nó không quá tầm với: chỉ là một đôi gà với đàn gà con – nhưng đã tràn đầy sự sống.
– Ý nghĩa, tác dụng: tạo nên sự thay đổi theo hướng tích cực của tất cả người trong cuộc và người ngoài cuộc:
+ Dân ngụ cư rạng rỡ hẳn lên, có cái gì lạ lùng thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ, đó chính là tình người. Họ đã chứng kiến hai con người, hai số phận gắn bó với nhau, cùng hi vọng vượt qua tình cảnh đói khát hiện tại – giữa lúc làn sóng đói nghèo như muốn cuốn phăng đi tất cả.
+ Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh, nhanh nhẹn hơn: khuôn mặt rạng rỡ khác ngày thường; trong bữa ăn toàn nói chuyện vui, chuyện tương lai với niềm tin tưởng vào sự thay đổi của cuộc sống.
+ Người vợ nhặt trở nên hiền hậu, đúng mực, ý tứ, đảm đang, chị không còn vẻ gì là chao chát chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh – chất nữ tính của chj đã trở về tọn vẹn.
+ Tràng vui vẻ hơn, hào hứng và anh thấy như trưởng thành hơn, thấy yêu thương và gắn bó với cái nhà anh lạ thường, lại còn hoà hợp với mẹ, anh thấy anh có trách nhiệm với gia đình.
* Tình huống “nhặt vợ” của Tràng làm toả sáng tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm: khẳng định, đề cao những tình cảm cao đẹp, những khát vọng chân chính của con người.
– Là bài ca về tình nghĩa:
+ Tình mẫu tử: Việc Tràng có vợ đã gây ra cho bà cụ Tứ rất nhiều phản ứng tâm lí trái ngược nhau (vui mừng và buồn tủi, thương và lo). Song mọi tình cảm đó đều xuât phát từ lòng thương con. Trong hoàn cảnh đói quay đói quắt, bà cụ Tứ đã không hề hăt hủi người đàn bà đã theo không con trai mình về. Bà cụ đã chấp nhận và đón nhận người con dâu với tất cả tấm lòng nhân từ của một người mẹ. Bà đã nói với người đàn bà xa lạ ấy bằng những lời chân thành của một người mẹ – bà thực sự “mừng lòng”.
+ Tình người: Dân xóm ngụ cư trong cảnh tối sầm lại vì đói vẫn chia sẻ với Tràng, chia sẻ với nhau cả những nỗi lo cùng niềm vui, niềm hạnh phúc. Còn Tràng, dù trong hoàn cảnh chưa biết có sống nổi đến ngày mai không vẫn sẵn lòng cưu mang một người còn khổ hơn mình. Việc Tràng mời người đàn bà một bữa bánh đúc không hề tính toán gì, cử chỉ hào hiệp ấy không phải do sự giàu có về tiền bạc mà chính ở tình người. Và chính tình nghĩa đã khiến Tràng trở nên lúng túng, trên đường về, anh muốn nói một câu gì cho văn vẻ với người vợ vừa nhặt được à không sao nói nổi, có một cái gì mới mẻ, lạ lắm khiến anh hạnh phúc vô cùng. Người đàn bà được Tràng và người mẹ chồng chấp nhận, chị đã trở nên dịu dàng, đúng mực hơn, tất cả chất nữ tính của chị trước đây bị cái đói tước mất thì đói thì nay đã trở về nguyên vẹn.
– Là bài ca về những khát vọng chân chính của con người.
+ Đề cao, khẳng định hạnh phúc của con người: Trong hoàn cảnh bi thảm con người vẫn có thể tạo dựng được hạnh phúc. Người nhặt vợ và người vợ nhặt khi đến với nhau lại tạo dựng được một mái ấm hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy thiêng liêng đến mức làm thay đổi tất cả mọi người – theo chiều hướng tích cực, làm cho mỗi người trở nên Người hơn, yêu thương nhiều hơn, găn bó hơn và có ý thức sâu sắc về cuộc sống và tương lai.
+ Khẳng định khát vọng sống, niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai. Trong đêm đầu tiên của vợ chồng Tràng, ánh sáng của ngọn đèn dầu toả ra thứ ánh sáng ấm áp, ánh sáng của niềm vui, niềm tin mãnh liệt. Một người nghèo khổ như Tràng, lại gặp bước khó khăn đến mức đang đứng bên cạnh cái chết thế mà dám bỏ tiền ra mua dầu thắp thì đó không phải là một sự hoang phí mà chính là niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, sự sống. Đặc biệt, nhà văn Kim Lân để cho bà cụ Tứ, người già nhất trong truyện lại nói nhiều nhất về tương lai để khẳng định niềm tin mạnh mẽ, sâu sắc ở tất cả mọi người.
– Kết cấu truyện là kết cấu theo chiều hướng phát triển đi lên, đó là kết cấu dựa trên cơ sở của niềm tin, niềm hi vọng. Truyện mở ra là một buổi chiều chạng vạng mặt người với cái đói thê thảm tước dần sự sống của con người. Và kết thúc là một buổi bình minh sáng bừng và hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh. Đó là một kết thúc lạc quan, nó thể hiện sâu sắc ý tưởng của nhà văn Kim Lân: “Trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, người dân quê Việt Nam vẫn cố gắng vượt lên khỏi cái đói, cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng”.
2. Bức tranh xóm ngụ cư khi nạn đói đến
* Khái quát:
– Bối cảnh lịch sử có thật: nạn đói 1945, cướp đi 1/10 dân số của Việt Nam.
– Tác phẩm hoàn thành khá lâu sau sự kiện lịch sử này nhưng cảm quan về cái đói vẫn ngấm trong từng chữ, ám ảnh cái nhìn làng quê của nhà văn.
* Không gian làng quê Việt Nam ngày đói quay quắt, xơ xác, tiêu điều.
– Cái đói “tràn đến”: Sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, một cuồng phong, càn quét mọi sinh linh.
– Thời gian: chiều “chạng vạng”
– Không gian: Con đường vì cái đói mà “ khẳng khiu”, hai bên dãy phố úp súp tối om.
– Con người:
+ Trẻ con: ủ rũ, không buồn nhúc nhích.
+ Người sống: Xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma.
+ Người chết: “như ngả rạ”, ba, bốn cái thây nằm cỏng queo bên đường”
→ Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa.
+ Những con người dắt díu bồng bế nhau hôm nay có thể sẽ là mấy cái “thây nằm còng queo bên đường” ngày mai.
+ Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” → “sứ giả” của cái chết, cõi âm -> gợi ám ảnh rợn lạnh, âm khí.
+ Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người.
* Tóm lại: Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã khơi lật được mảng hiện thực trần trụi “tối sầm lại vì đói khát” tạo ấn tượng về một cõi dương đậm đặc âm khí. Đó là một bức tranh ảm đạm tử thần đang lè lưỡi hái bao chùm khắp xóm ngụ cư.
3. Nhân vật Tràng
– Ngoại hình:
+ Mắt nhỏ tí
+ Hàm bạnh, mặt thô kệch.
+ Đầu: trọc nhẵn.
+ Lưng: to, rộng như lưng gấu.
+ Áo: nâu tàng.
→ Các chi tiết cụ thể pha chút trào lộng đặc tả một thanh niên lao động thô kệch, vất vả, lam lũ, được hóa công đẽo gọt quá sơ sài, dường như vẫn phảng nét hoang dại.
– Tên gọi: Dụng cụ trong nghề mộc.
– Xuất thân: dân ngụ cư → Tầng lớp sống lang bạt, không quê quán, lai lịch rõ ràng, thường bị dân bản xứ khinh miệt.
→ Gợi liên tưởng các nhân vật chàng ngốc, người đần trong truyện cổ dân gian, hiện thân cho một số phận bất hạnh.
– Phẩm chất: bộc lộ trong tình huống nhặt được vợ.
+ Câu văn bản lề mở ra toàn bộ câu chuyện cảm động là câu văn diễn tả sự kiện người đàn bà xa lạ “rơi” vào cuộc đời Tràng “giữa cái ảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”.
+ Nhớ lại chuyện lấy vợ: nhặt được vợ trên con đường đời thảm đạm. Một số phận bất hạnh dạt vào cuộc đời một người bất hạnh.
+ Ứng xử trước phản ứng của mọi người:
Với đám trẻ: trước khi lấy vợ, Tràng giống như một đứa trẻ lớn tuổi thì bây giờ Tràng tách hẳn ra như một người trưởng thành.
Bảo vệ vợ mình trước con mắt tò mò của dân ngụ cư.
Đối thoại với vợ: toàn câu tỉnh lược, không có chủ ngữ → tâm lí ngượng nghịu, sượng sùng.
– Diễn biến tâm trạng:
+ Liều, sợ.
+ Bao trùm là hạnh phúc.
+ Ứng xử với vợ:
. Lấy vợ như nhặt một mớ rác nhưng không hề rẻ rúng vợ, ngược lại Tràng không ít tế nhị khi đi mua một số vật dụng làm của hồi môn cho vợ.
. Ý thức vun vén cho hạnh phúc mình đang có: mua dầu thắp.
. Chủ động giới thiệu vợ với mẹ đẻ → tránh cho người phụ nữ cảm giác ngượng ngùng và mặc cảm theo không.
. Hân hoan với niềm vui và trách nhiệm mới, hăm hở vun vén cho tổ ấm của mình. Buổi sớm đầu tiên có vợ, Tràng lâng lâng trong hạnh phúc “trong người êm ái lửng lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra”, “ ngỡ ngàng như không phải”, thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà cảu hắng lạ lùng”, nghĩ về tổ ấm tương lai, quyết tâm vun vén cho nó
→ Đoạn văn đậm chất thơ với giọng điệu trữ tình tha thiết. Ám ảnh về cái đói thoáng chốc bay biến để chỉ còn cảm giác hạnh phúc
→ Bài học nhân sinh:
– Ngay trên bờ vực cái đói, khi tưởng như miếng ăn là nhu cầu bức thiết thì tình người, giá trị con người và khao khát được yêu thương vẫn cao quí hơn cả và vẫn không bị mất đi.
– Hạnh phúc làm thay đổi con người. Trong tăm tối khốn cùng, khát vọng được yêu thương giống như một bản năng bất diệt vẫn cháy sáng.
– Đặt nhân vật trong tình huống đặc biệt, một mặt nhà văn lột tả được đời sống khổ cực của người nông dân trong năm đói, mặt khác khám phá vẻ đẹp kì diệu nơi tâm hồn của họ.
3. Người vợ nhặt
– Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là cành củi khô trôi dạt vào cuộc đời Tràng, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
→ Với cách xây dựng nhân vật như thế đã cho thấy dưới sự rình rập,bủa vây của nạn đói những con người, những số phận như người vợ nhặt không phải là hiếm mà có mặt ở khắp mọi nơi.
– Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
+ Quần áo: tả tơi như tổ đỉa.
+ Gầy sọp.
+ Mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai hố mắt.
+ Ngực gầy lép
→ Không có chút dấu hiệu gì của nữ tính.
– Ngôn ngữ:
+ Đanh đá, trơ trẽn của người dân nghèo ít học.
+ Cong cớn mà không nanh nọc. Cong cớn, trơ trẽn là sản phẩm sinh ra từ đói nghèo, tăm tối, chứ không phải cái xấu, cái ác.
→ Qua việc khắc họa ngoại hình cũng như ngôn ngữ nhân vật đã cho thấy:
+ Tài năng trong sử dụng ngôn ngữ đối thoại.
+ Số phận đầy bất hạnh của người phụ nữ: xấu, nghèo, bị cái đói xô đẩy đến gần kề cái chết, bị biến thành thân phận trôi dạt, cỏ rác, thành thứ có thể nhặt được.
– Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Lòng ham sống, khát vọng sống đã thôi thúc thị đồng ý theo Tràng:
+ Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa: “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư?
+ Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng.Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
– Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều:
+ Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đó phải chăng là vẻ đẹp của cô dâu về nhà chồng.
+ Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
+ Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
– Vẻ đẹp khuất lấp còn thể hiện bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan, có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình.
+ Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chì là cô vợ nhặt.
+ Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; còn người nói đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt – người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của câu chuyện đáng buồn này.
→ Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Cũng qua hình ảnh người vợ nhặt và nhan đề độc đáo ấy, Kim Lân đã góp tiếng nói lên án, tố cáo tội ác tày trời của bọn phong kiến, phát xít, thực dân đã đẩy dân tộc ta vào hoàn cảnh khốn cùng. Giá trị của một con người trở nên rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ, thậm chí có vợ theo. Nhưng con người Việt Nam dù trong hoàn cảnh nào họ cũng biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau để hướng về tương lai hi vọng trông chờ.
4. Bà cụ Tứ
– Ngoại hình: Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “long khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm “,”khuôn mặt bủng beo, u ám “. Những hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật, “lễ mễ” cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói “ cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.
– Hoàn cảnh xuất hiện: Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
+ Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”.
+ Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.
– Diễn biến tâm trạng: Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng.
+ Bà cụ Tứ thể hiện tâm trạng ngạc nhiên , ngỡ ngàng bật ra hàng loạt các câu hỏi khi thấy người đàn bà lạ ở trong nhà mình: “người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay ở đầu giường con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?”
+ Tâm trạng băn khoăn ngồi xuống giường khi nghe con trai bà xác nhận là người đàn bà ấy được anh nhặt về làm vợ thì bà hiểu ra cơ sự, bà xúc động đến lặng người.
+ Cảm thông: sự từng trải một người mẹ, một phụ nữ lao động nghèo. Sự gắn kết này sẽ mang lại hơi ấm và sức sống mới cho gia đình sau này.
+ Sự hàm ơn đối với người phụ nữ vợ nhặt bởi: là mẹ bà không lo nổi mà phải để con tự lấy vợ – người vợ theo không. “Mừng lòng” chứ không phải “bằng lòng”.
→ Bà cụ đang nói bằng tình bằng nghĩa chứ không phải bằng lí trí, quyền phép của một người mẹ đối với con. Lời nói nghe vừa tội nghiệp vừa xót xa nhưng cũng chan chứa hồn hậu yêu thương.
+ Tủi phận: ám ảnh về gia cảnh. Bà lão cúi đầu nín lặng không nói được gì khi thấy con mình bất chấp cái đói để thực hiện ước mơ hạnh phúc khiến bà vừa xót thương cho số kiếp con trai mình bao nhiêu lại vừa ai oán tủi thân tủi phận mình bấy nhiêu, vì bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cho con mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. → trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa
→ Tự trách mình.
+ Bao trùm: cảm giác hạnh phúc, tin tưởng.Trong khoảnh khắc sung sướng hạnh phúc vì con có đôi tương lai không phải cho bà mà là cho con cháu, bà truyền cho con cái niềm lạc quan hy vọng “không ai khó ba đời”, khuôn mặt “rạng rỡ”, chủ động tổ chức bữa tiệc đón con dâu mới – bữa cơm của tình người, của tấm lòng.
Hình ảnh “nồi cháo cám” sau đêm tân hôn: Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
→ Nhận xét: Đặt những ấp ủ về hạnh phúc, về tương lai vào trong suy nghĩ của bà mẹ, Kim Lân đã dạo lên bài ca sự sống bất diệt. Bà mẹ nông dân với những nỗi tủi cực, khốn cùng trong năm đói cũng là bà mẹ Việt Nam hồn hậu, vị tha, độ lượng, lạc quan trong ca dao dân ca thủa nào.
III. TỔNG KẾT
1 .Nội dung
Tác phẩm không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp, sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng tới sự sống, khát khao hạnh phúc gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
2. Ngệ thuật
– Nghệ thuật sáng tạo tình huống, 2 giá trị:
+ Hiện thực: có 3 định nghĩa về vợ: vợ là thứ nhặt được (Kim Lân), vợ là của nợ đời (hàng xóm), đèo bồng (Tràng) → Số phận thảm hại của con người trong ngày đói, người vợ không khác gì một thứ cỏ rác trôi nổi trong họa đói.
+ Nhân đạo: trong tăm tối vẫn cháy lên khát vọng sống, khát vọng yêu thương mãnh liệt.
– Khung cảnh: mở là chiều chạng vạng với sự xâm tràn của bóng tối → kết: bình minh với dự cảm tương lai tươi sáng.
– Bút pháp:
+ Miêu tả tâm lí: am hiểu tâm lí con người, đặc biệt là tâm lí bà mẹ nông dân.
+ Tương phản: sự sống và cái chết.
– Ngôn ngữ: đối thoại tài tình → thạo hiểu tâm lí, tính cách, lời ăn tiếng nói của người lao động.